Tuesday, April 21, 2015

Tet & GDP (II)



Bài này sẽ giải thích thêm một số vấn đề về GDP nhân vụ một số thành viên chính phủ choáng/giật mình/bất ngờ vì GDP Q1 tăng 6.03%. Thực ra vụ này không liên quan lắm đến chủ đề ảnh hưởng của Tết vào GDP nhưng vì có bạn hỏi liệu con số tăng trưởng rất tốt đó có phủ nhận lập luận của tôi trong entry trước hay không nên tôi viết thành "tập 2" cho chủ đề Tết vs GDP. Bài này cũng có thể coi là "tập 2" của bài về thống kê quốc gia.


Một số khái niệm cơ bản

Trước hết cần phân biệt giá trị với tốc độ tăng GDP. Báo chí khi nói đến GDP hầu như chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng bao nhiêu % chứ không mấy khi nói đến GDP của quí này bao nhiêu nghìn tỷ. Ngay cả giới kinh tế (cả hàn lâm lẫn trên thị trường) cũng vậy, hỏi GDP của VN Q1 2015 là bao nhiêu ít người biết chính xác. Điều này có lý do của nó vì giá trị của GDP khi được thống kê bao gồm cả yếu tố lạm phát nên cơ quan thống kê phải bóc tách ảnh hưởng của lạm phát ra để có một con số phản ánh chính xác hơn sức khỏe của nền kinh tế thực. Thông thường giá trị của GDP sẽ được hiệu chỉnh theo mức giá của một năm gốc, hiện tại năm gốc mà TCTK sử dụng là 2010 (trước Q1 2013 năm gốc là 1994). Do đó con số giá trị GDP đã được hiệu chỉnh có ít ý nghĩa thực tế và khó hiểu với công chúng. Nói GDP Q1 của VN là 534.6 nghìn tỷ theo giá 2010 có thể sẽ gây hiểu nhầm vì thực ra tổng giá trị sản lượng quốc gia trong GDP Q1 ở thời điểm hiện tại là 808.9 nghìn tỷ. Bởi vậy thay vì nói về giá trị bao nhiêu nghìn tỷ, khái niệm tốc độ tăng GDP dễ hiểu và phổ biến hơn.

Tuy nhiên trong khi giá trị GDP (trong một chu kỳ thống kê nào đó, vd quí hay năm) là một con số duy nhất thì tốc độ tăng GDP phụ thuộc vào thời điểm so sánh (reference period). Con số phổ biến nhất là tốc độ tăng GDP hàng năm, nghĩa là lấy giá trị GDP của năm nay so với giá trị GDP của năm trước đó, cả hai con số này đều được hiệu chỉnh theo giá của năm gốc (vd năm 2010). Nhưng do GDP là một con số thống kê rất quan trọng nên hầu hết các nước đều thống kê và công bố GDP hàng quí. Tốc độ tăng trưởng (hay sụt giảm) GDP được công bố hàng quí thường là so sánh giá trị GDP của quí này với GDP của quí ngay trước đó. Con số tăng trưởng này gọi là quarter-on-quarter (qoq) và thường được qui đổi tương đương với tốc độ tăng trưởng theo năm bằng cách nhân với 4 (vì 1 năm có 4 quí). Ví dụ nếu GDP Q1 bằng 100 tỷ, Q2 bằng 101 tỷ thì annualized qoq growth rate (mà nhiều khi báo chí gọi tắt là qoq growth) bằng (101/100-1)*4=4% (thông lệ không sử dụng compound).

Vì số liệu quí hay bị tác động mùa vụ nên hầu hết thống kê GDP của các nước đều được hiệu chỉnh mùa vụ cho cả giá trị lẫn tốc độ tăng. Ví dụ khi báo chí đưa tin GDP Q4 2014 của Mỹ là 2.4% thì phải hiểu đó là tốc độ tăng của GDP trong Q4 so với GDP Q3 sau khi được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ và qui đổi thành tốc độ tăng trưởng năm. Giới tài chính có thể ghi chú bên cạnh con số này thêm ký hiệu "saar" (seasonally adjusted annualized rate) để tránh nhầm lẫn. Ở VN, như tôi đã nêu ra trong bài trước số liệu thống kê không/chưa được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ, bởi vậy giá trị lẫn tốc độ tăng trưởng qoq có biến động rất lớn. Ví dụ GDP Q1 2015 (theo giá hiện hành) là 808.9 nghìn tỷ VND giảm 36% so với GDP Q4 2015 là 1264.9 nghìn tỷ. Vì tốc độ giảm lớn như vậy nên không thể/không nên annualized (nhân với 4). Rõ ràng Tết ta vẫn có tác động rất lớn lên GDP Q1 2015.

Con số tăng trưởng thứ hai cho GDP theo quí có reference period là quí tương đương năm trước, vd so sánh Q1 2015 với Q1 2014. Giới tài chính sử dụng thuật ngữ year-on-year (hay year-over-year) để chỉ sự so sánh cùng kỳ này. Một điểm cần lưu ý là TCTK sử dụng một thông lệ hơi khác so với quốc tế khi công bố tốc độ tăng trưởng GDP cùng kỳ. Ở VN mỗi quí TCTK công bố giá trị GDP từ đầu năm cho đến cuối quí đó, nghĩa là GDP trong quí 1, trong 6 tháng đầu năm, trong 9 tháng đầu năm, và GDP cho toàn bộ 12 tháng. Thuật ngữ chuyên môn gọi là cumulative GDP, hiện tại ngoài VN tôi chỉ biết có TQ cũng sử dụng hình thức công bố này. Như vậy cứ mỗi cuối quí TCTK công bố tốc độ tăng trưởng GDP so với cùng kỳ năm trước phải hiểu là so với quí 1, với 6 tháng đầu năm, 9 tháng đầu năm, 12 tháng cả năm trước. Trong khi đó hầu hết các nước khi so sánh cùng kỳ sẽ là GDP Q1 năm nay so với Q1 năm trước, Q2 năm nay với Q2 năm trước...

Lợi ích của việc so sánh cùng kỳ này (dù theo cách quốc tế hay cumulative value như của VN và TQ) là loại trừ được yếu tố mùa vụ và không cần annualize (nhân với 4) vì tốc độ tăng cùng kỳ đó luôn giữa một khoảng 12 tháng. Điểm bất lợi của phương pháp này là nó không phản ánh kịp thời những biến động kinh tế mới nhất giữa 2 quí liền kề và con số này còn bị nhiễu bởi các quí nằm giữa 2 kỳ thống kê. Với báo chí và người dân điều này không quá quan trọng, nhưng với giới tài chính và policy makers (ở các nước) thì khó có thể chấp nhận nên tốc độ tăng trưởng cùng kỳ (yoy) thường chỉ có tính tham khảo cho xu hướng dài hạn chứ ít khi sử dụng cho các chính sách hay chiến lược đầu tư. Ở VN số liệu tăng trưởng qoq không được công bố ngoài lý do TCTK chưa có công cụ hiệu chỉnh mùa vụ phù hợp có thể còn vì ảnh hưởng của Tết ta vào GDP Q1 quá lớn nên sẽ rất bất lợi (về mặt tâm lý) khi công bố GDP Q1 giảm 36%.

Tóm lại cần lưu ý là dù cũng là tốc độ tăng trưởng GDP nhưng con số mà TCTK VN công bố hàng quí là yoy (cumulative) trong khi ở hầu hết các nước là qoq (saar).


Những vấn đề liên quan đến GDP Q1 2015

Như đã giải thích bên trên, con số 6.03% mà TCTK công bố là tăng trưởng GDP Q1 2015 so với cùng kỳ năm 2014, cả hai con số được tính theo giá năm gốc 2010 để loại bỏ yếu tố lạm phát. Một điều thú vị là nếu lấy giá trị GDP của hai quí 1 này, lần lượt là 503.7 nghìn tỷ (2014) và 534.8 nghìn tỷ (2015), để tính tốc độ tăng trưởng thì đúng ra phải là 6.13%. Sự "khiêm tốn" đáng ngạc nhiên này của TCTK có thể có hai lý do. Thứ nhất do cách tính GDP thay đổi nên con số GDP Q1 2014 đã được hiệu chỉnh tăng lên nhưng TCTK không công bố điều này. TCTK đã rập rình về khả năng thay đổi phương pháp tính GDP từ cuối năm ngoái sau khi cả thủ tướng lẫn chủ tịch QH than phiền về chất lượng thống kê. Tôi không biết có phải phương pháp tính đã thay đổi và GDP của các quí gần đây đã được tính lại hay không, rất mong TCTK công khai điều này.

Lý do thứ hai là việc chuyển năm gốc từ 1994 thành 2010 cũng có thể ảnh hưởng đến giá trị và tốc độ tăng GDP của các quí trước đó. TCTK chuyển năm gốc vào Q1 2013, nghĩa là về mặt lý thuyết tất cả các thống kê sau thời điểm này không bị ảnh hưởng bởi việc năm gốc thay đổi nữa. Tuy nhiên trên thực tế số liệu thống kê giai đoạn 2012-2014 đã được chỉnh sửa khá nhiều, có lẽ để đảm bảo tính nhất quán giữa hai chuỗi số liệu (trước và sau 2013) có năm gốc khác nhau. Cho đến thời điểm này TCTK chưa công bố chuỗi GDP theo năm gốc 2010 cho giai đoạn trước Q1 2013 nên tôi phải tự nối 2 chuỗi này với giả thiết tốc độ tăng không đổi khi đổi năm gốc. Điều này thực ra không chính xác nhưng không có lựa chọn nào khác nếu muốn nghiên cứu chuỗi (real) GDP dài. Các bạn làm việc liên quan đến GDP qúi của VN nên cẩn thận. Trong bài Tết vs GDP trước tôi sử dụng số liệu nominal GDP và dùng CPI hiệu chỉnh để tránh phải dùng real GDP.

Bỏ qua vấn đề con số tăng trưởng cùng kỳ của Q1 2015 là 6.03 hay 6.13%, vì đây là so với Q1 2014 nên ngay cả nếu nó thực sự tốt cũng không có nghĩa Tết ta năm 2015 không có tác động gì. Cả hai kỳ so sánh đều có Tết nên nếu tác động của Tết như nhau chúng đã được loại bỏ. So với quí ngay trước đó (Q4 2014), nominal GDP giảm 36% còn real GDP giảm gần 38%. Tất nhiên nói vậy không có nghĩa tôi phủ nhận con số 6.03 hay 6.13% là một tốc độ tăng rất tốt khi so sánh cùng kỳ. Có điều tôi không choáng/giật mình/bất ngờ như một vài thành viên chính phủ bởi vì tôi biết nền kinh tế đã qua đáy và đang trên đà phục hồi khoảng 1-2 năm lại đây. So sánh cùng kỳ (yoy) không tính cumulative thì Q4 2014 có tăng trưởng 6.78%, Q3 2014 là 6.36%, đều là tăng trưởng cao nhất trong 4 năm gần đây. Như vậy nếu có choáng/giật mình/bất ngờ thì đáng ra các bộ trưởng/thống đốc phải choáng/giật mình/bất ngờ từ tháng 9 hay cùng lắm là tháng 12 năm ngoái chứ không phải đợi đến bây giờ.

Sự chậm chễ đó sẽ không thành vấn đề nếu tăng trưởng trong những quí tới tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên đằng sau con số tăng trưởng 6.03% mà nhiều người bất ngờ có hai yếu tố làm tôi không lạc quan về những quí tới và cả năm 2015 như nhiều chuyên gia khác. Yếu tố thứ nhất là nếu nhìn vào tăng trưởng qoq được hiệu chỉnh mùa vụ theo phương pháp của Matthias Mohr mà tôi sử dụng trong bài trước, tăng trưởng GDP qoq của Q1 2015 thấp hơn Q1 2014. Như đã nói bên trên tăng trưởng qoq phản ánh tình trạng kinh tế kịp thời hơn con số yoy nên đây là dấu hiệu xấu. Xét về tổng thể tăng trưởng qoq của cả nominal lẫn real GDP có vẻ đã đạt đỉnh vào giữa năm 2014 và có dấu hiệu suy giảm trong 2 quí gần đây. Tất nhiên một vài quí chựng lại chưa thể kết luận nền kinh tế bắt đầu đi xuống, nhưng chí ít đây là dấu hiệu cảnh báo sự lạc quan về triển vọng kinh tế năm 2015 có thể có rủi ro.

Yếu tố thứ hai là một chỉ số lạm phát suy ra từ tốc độ tăng trưởng giữa nominal và real GDP (implicit price deflator - IPD) cho thấy lạm phát suy giảm rất nhanh từ giữa năm 2014. Lưu ý IDP khác với CPI vì rổ hàng hóa để tính tốc độ trượt giá khác nhau, tuy nhiên chúng cùng phản ánh tình trạng lạm phát trong một nền kinh tế. IPD cho Q1 2015 đã giảm xuống dưới 1%/năm, so với 5.8%/năm vào Q1 2014. Lạm phát giảm có thể do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể do tổng cầu yếu - là một điều không tốt cho nền kinh tế. Bên cạnh đó IPD (về cơ bản là chênh lệch giữa nominal và real growth) thấp phản ánh tình trạng real growth cao trong khi nominal growth thấp. Có thể thấy điều này khi so sánh yoy nominal growth: Q1 2015 là 6.92% so với Q1 2014 là 10.66%. Trên thực tế yoy nominal growth của Q1 2015 thấp nhất trong 10 năm qua, ngược hoàn toàn với yoy real growth.

Tóm lại có một vài dấu hỏi cho con số yoy của Q1 2015. Ngay cả nếu con số 6.03% chính xác vẫn có lý do để lo ngại triển vọng kinh tế trong thời gian tới. Ngoài ra con số này dù tốt hay không không liên quan gì đến ảnh hưởng của Tết vào GDP. Muốn đánh giá tác động của Tết phải phân tích tăng trưởng qoq chứ không phải yoy.


Thay cho lời kết...

Như vậy sự hoan hỷ của các quan chức chính phủ về con số tăng trưởng 6.03% của Q1 2015 rất có thể quá muộn. Có dấu hiệu cho thấy chính Q1 2015 là turning point, không phải đi lên mà là đi xuống. Ai làm dự báo cũng muốn mình đúng, nhưng quả thật tôi hi vọng nhận định của tôi trong bài này sai. Có thể GDP trong Q1 2015 chỉ bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ Tết quá dài vừa rồi, mọi thứ rồi sẽ ổn. Có thể góc nhìn này chỉ phân tích GDP tổng thể mà không đi sâu vào từng cấu thành của nó hay bổ sung các chỉ số khác như PMI, IP, export... là phiến diện. Thôi thì cứ hi vọng như vậy.



Wednesday, April 1, 2015

Personal Finance



Một gia đình trung lưu/khá giả (upper middle class) ở các nước phát triển thường sử dụng bốn dịch vụ có tính chất cá nhân sau: bác sĩ gia đình, luật sư riêng, kế toán cá nhân, và tư vấn tài chính cá nhân (personal financial planner). Về cơ bản personal financial planner là người tư vấn cho khách hàng cá nhân cách thức đầu tư dài hạn để giữ tài sản an toàn và hiệu quả. An toàn nghĩa là giảm thiểu rủi ro mất mát hoặc bị tranh chấp/kiện tụng. Hiệu quả là có lợi tức (sau thuế) và cash-flow tối ưu phù hợp với hoàn cảnh của từng khách hàng. Trước đây tôi đã từng đề cập đến dịch vụ này ở đây, trong đó tôi nhấn mạnh financial planning là cho đầu tư cá nhân dài hạn chứ không phải tư vấn giúp đầu cơ hay lướt sóng kiếm lời ngắn hạn.

Việc lên kế hoạch tài chính dài hạn cho cuộc đời là một điều rất quan trọng và cần thiết với đa số chúng ta, nhất là khi truyền thống về già sống dựa vào con cháu đang ngày càng mai một còn hệ thống BHXH/sổ hưu rất mong manh. Trong khi đợi VN có các financial planner chuyên nghiệp, bài viết này sẽ giới thiệu cho các bạn một số nguyên tắc căn bản của personal financial planning. Tất nhiên các thông tin ở đây chỉ để tham khảo, nếu bạn định áp dụng điều gì cho bản thân thì cần cân nhắc kỹ hoàn cảnh (tài chính) cá nhân của mình.


1. Saving: Nguyên tắc đầu tiên của financial planning là đừng vung tay quá trán, hãy lên kế hoạch tiết kiệm ngay khi có những đồng thu nhập đầu tiên. Chắc ai cũng biết sức mạnh của compounding effect (lãi suất kép, hay nôm na là lãi mẹ đẻ lãi con) nên dù không có kiến thức gì về tài chính chỉ cần đều đặn tiết kiệm thì sau một thời gian dài bạn sẽ có một khoản tiền đáng kể. Tất nhiên ở những nơi có lạm phát cao như VN và/hoặc property right không được đảm bảo (vd có thể bị đổi tiền như những năm 80) thì gửi tiết kiệm tiền mặt có thể không phải là giải pháp tốt. Nhưng để có thể đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào bạn cũng cần có một khoản tiền tiết kiệm ban đầu, trừ trường hợp gia đình bạn có sẵn tiền hay bạn may mắn trúng số. Nhiều quốc gia bắt buộc người dân phải tiết kiệm một mức tối thiểu từ thu nhập như hệ thống provident fund của Singapore/Malaysia, hay superannuation của Úc (pension fund theo nguyên tắc defined contribution). Tiết kiệm càng sớm và càng đều đặn càng tốt.

Với financial planning, nguyên tắc tiết kiệm không chỉ có vậy. Một financial planner có thể sẽ khuyên bạn hai điểm nữa liên quan đến nguyên tắc này. Thứ nhất hãy tập trung thời gian làm công việc mà mình có thể kiếm được nhiều tiền nhất, sau đó trích một phần thu nhập cho saving để compounding effect giúp cho tài sản của mình tăng lên. Trừ những trường hợp ngoại lệ của một số "siêu nhân" làm gì cũng giỏi, đa số chúng ta chỉ có thể làm tốt một chuyên môn của mình. Do đó một bác sĩ nên tập trung thời gian cho việc khám chữa bệnh và nâng cao kiến thức/tay nghề, chứ đừng quá tốn thời gian/công sức vào việc đầu tư cổ phiếu hay những hình thức kiếm tiền tay ngang khác như bán hàng trên mạng. Rất có thể bạn sẽ tiền mất tật mang, thu nhập chính của mình giảm sút vì bị chi phối và phân tâm vào những việc không phải chuyên môn đó.

Thứ hai (chủ yếu dành cho giới professional cao cấp có thu nhập tương đối cao), không những không nên sao lãng chuyên môn chính cho việc kiếm tiền tay ngang, bạn thậm chí còn nên trả tiền để không phải làm những công việc trong nhà hòng có thêm thời gian cho chuyên môn. Một số ví dụ như thuê tài xế riêng, thuê giặt ủi quần áo, dọn dẹp nhà cửa, hay thậm chí thuê người nấu ăn cho mình (personal cook). Điều này thoạt nhìn có vẻ trái với nguyên tắc tiết kiệm, nhưng nếu nó giúp bạn tăng nguồn thu nhập chính vì có thêm thời gian nghỉ ngơi phục hồi và tăng cường sức khoẻ, học hành nâng cao chuyên môn, mở rộng quan hệ xã hội và chuyên ngành, thì về tổng thể tài sản của bạn có thể sẽ tăng nhanh hơn là cứ căn cơ tiết kiệm. Tất nhiên điều này không/chưa áp dụng với nhiều người, nhưng bạn cần nhớ tiết kiệm khác với hà tiện. Nếu cần phải chi điều gì để tăng thu nhập (hiện tại và tương lai) thì bạn nên chi, thời gian là tiền bạc và cái giá của thời gian (opportunity cost) chính là mức thu nhập của bạn.


2. Diversification: Nguyên tắc thứ hai này tưởng như quá đơn giản và hiển nhiên, tuy nhiên một financial planner giỏi không đơn thuần khuyên bạn không được bỏ hết trứng vào một rọ. Trên thực tế nếu bạn là một kỹ sư tin học mới ra trường đang ấp ủ một ý tưởng startup, financial planner có thể sẽ khuyên bạn bỏ hết tất cả tiền bạn có, thậm chí đi vay thêm người thân và bạn bè để đầu tư vào cái startup đầy rủi ro của bạn. Lý do là khi bạn còn rất trẻ khả năng chịu đựng rủi ro (risk taking ability) của bạn rất cao nên có thể mạo hiểm đầu tư vào những dự án đầy rủi ro như vậy. Tôi sẽ viết kỹ hơn về khả năng risk taking bên dưới, ở đây tôi chỉ nhấn mạnh vào điểm diversification không chỉ có nghĩa phải đầu tư dàn trải ra nhiều loại tài sản (assets) mà còn bao gồm dàn trải trong cuộc đời (lifetime) của bạn.

Về asset diversification chắc các bạn đều biết nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau, ở các thị trường khác nhau (bằng các đồng tiền khác nhau), đầu tư vào bất động sản và các loại tài sản vật lý khác. Một vấn đề thực tiễn mà lý thuyết tài chính ít nhắc đến là chi phí giao dịch (transaction costs) phải được tính đến khi quyết định mua bao nhiêu loại assets. Trừ khi bạn có một số tài sản lớn, còn đa số trường hợp cách diversification hiệu quả nhất là mua chứng chỉ quĩ (mutual fund, ETF, REIT) nếu thị trường cho phép. Còn ở những nơi chưa có khả năng này như VN, một số nghiên cứu cho rằng đầu tư vào khoảng 10-20 cổ phiếu bluechip là đã tương đương với 60-80% diversification của cả thị trường. Cho nên nếu số tiền đầu tư của bạn còn ít, chưa nhất thiết phải dàn trải ra nhiều loại chứng khoán/tài sản, hãy cố gắng đừng để transaction costs vượt quá 1-2% số tiền đầu tư. Nhưng nhớ cân nhắc khi đầu tư lần tiếp theo khi bạn có thêm tiền, đừng vì cổ phiếu/tài sản lần trước mình mua đã "thắng đậm" mà lại tiếp tục dồn tiền vào đó.

Tất nhiên nếu bạn đầu tư nhiều lần khác nhau trong cuộc đời điều đó cũng tương đương với lifetime diversification. Chu kỳ kinh tế và chu kỳ thị trường có thể biến động rất mạnh cho nên diversification về mặt thời gian sẽ giảm bớt ảnh hưởng của rủi ro mua nhầm thời điểm mà không cần dự báo hay mô hình/kỹ thuật phức tạp gì cả. Cứ lên mục tiêu hàng tháng tiết kiệm một khoản tiền nhỏ cho vào tài khoản, sau 1-2 năm lấy ra đi đầu tư, đừng quá quan tâm đến tình hình thị trường lúc đó (không cần nghe các "chuyên gia" dự báo thị trường đã xuống đáy hay chưa). Cứ đầu tư liên tục và đều đặn để tận dụng compounding effect, đừng cố rình rập thị trường vì đa số các trường hợp bạn sẽ thất bại.


(còn tiếp)

Note: Phần tiếp theo của bài viết này sẽ chỉ dành cho các bạn có đăng ký membership và trả phí hàng tháng. Chi tiết về cách thức đăng ký và mức phí có thể xem ở đây