Sunday, December 31, 2017
Bitcoin II
Thế giới không thiếu các nhà tỷ phú lập dị nhưng có lẽ không ai giống Satoshi Nakamoto. Ở thời điểm cuối tháng 12/2017 số bitcoin mà Nakamoto sở hữu có giá trị hơn 10 tỷ đô la, nếu Nakamoto là một người thì ông/bà ta đứng trong Top 100 danh sách những người giầu nhất thế giới của tạp chí Forbes. Nhưng khác với tất cả các tỷ phú khác, Nakamoto không hề động đến một xu trong khối tài sản đó và có lẽ danh tính thực của nhân vật này sẽ vĩnh viễn là một bí mật của lịch sử.
Tháng 10/2008 Satoshi Nakamoto, chỉ được biết đến dưới một cái tên ảo trên một diễn đàn của các chuyên gia mật mã học (cryptography), công bố một bài viết phác thảo một hệ thống tiền điện tử không cần bất kỳ một quyền lực tập trung nào quản lý/xác thực hoạt động thanh toán giữa các thành viên. Đầu năm 2009 Nakamoto công bố mã nguồn mở cho hệ thống tiền tệ này và gọi đồng tiền đó là bitcoin. Vào thời điểm kích hoạt hệ thống Nakamoto tạo ra và phân phát miễn phí một số bitcoin cho các thành viên ban đầu, còn gần 1 triệu bitcoin trong tài khoản đã không bao giờ được Nakamoto đụng đến. Cuối năm 2010 nhân vật bí hiểm này tuyên bố rời cuộc chơi rồi biến mất vĩnh viễn.
Trải qua nhiều thăng trầm đồng bitcoin đã tăng giá trị từ vài chục cent lên đến gần 20 nghìn đô la, tạo ra một cơn sốt mà nhiều người cho rằng không kém vụ bong bóng giá hoa tulip ở Hà Lan trong thế kỷ 17. Hàng nghìn biến thể ăn theo của bitcoin ra đời sinh ra một thuật ngữ mới vô cùng thời thượng: tiền mật mã (cryptocurrency), những đồng tiền điện tử có cơ chế tương tự như bitcoin hoàn toàn do tư nhân tạo ra. Đến giữa tháng 12/2017 tổng giá trị của những đồng tiền này đã vượt 500 tỷ đô la còn giao dịch hàng ngày vượt giao dịch chứng khoán trên sàn New York. Các định chế tài chính lớn bắt đầu có những động thái chấp nhận bitcoin dù có vô số ý kiến trái chiều của giới kinh tế và cả các nhà hoạch định chính sách.
Từ trước tới nay bất kỳ đồng tiền nào cũng cần sự chấp nhận và tín nhiệm của một cộng đồng dân cư. Các đồng tiền quốc gia có được điều này nhờ quyền lực nhà nước đứng đằng sau, bao gồm cả vũ lực lẫn sức mạnh kinh tế nhà nước. Với đồng bitcoin Satoshi Nakamoto đã thay thế quyền lực tập trung bằng hai nguyên lý cơ bản dựa vào các thuật toán mật mã học. Nguyên lý thứ nhất blockchain là một kết hợp khéo léo của một dạng hàm mật mã (hash function) với hệ thống sổ sách (ledger) ghi lại toàn bộ quá trình luân chuyển của một đồng bitcoin từ lúc nó được tạo ra. Ứng dụng mật mã học vào sổ sách kế toán đảm bảo một khi giao dịch bitcoin đã được ghi vào sổ thì không một ai có thể thay đổi được nữa mà không bị phát hiện.
Nguyên lý thứ hai proof-of-work (POW) là một khái niệm đã được các nhà mật mã học phát triển khá lâu trước Nakamoto. Theo đó một cá nhân có thể tự chứng minh mình đã tốn một lượng thời gian công sức nhất định để tìm ra lời giải một bài toán mật mã mà sau đó bất kỳ ai cũng có thể kiểm chứng điều đó dễ dàng. Năm 1997 Adam Black đã ứng dụng thành công khái niệm này cho một hệ thống chống email rác bằng một công nghệ mà ông đã đặt cho một cái tên đầy tính dự báo: Hashcash. Có thể nói nôm na hashcash là một cái tem thư dán lên từng email đến một địa chỉ nhất định. Dù không quá đắt để gửi một email nhưng nếu một người gửi hàng chục nghìn email rác thì sẽ cần hàng chục nghìn cái tem với chi phí không hề nhỏ.
Từ ý tưởng hashcash Nakamoto đã rất tài tình ứng dụng khái niệm POW thành một cơ chế khuyến khích các thành viên đơn lẻ trong hệ thống bitcoin tham gia vào quá trình mã hóa blockchain, gián tiếp ngăn chặn khả năng một vài cá nhân thiểu số có ý định làm giả hoặc sửa đổi blockchain. Nhờ đó bitcoin đảm bảo được đặc tính không thể bị làm giả và không ai có thể tiêu một đồng bitcoin hai lần, chí ít với năng lực tính toán của toàn bộ máy tính trên thế giới ở thời điểm hiện tại. Tờ The Economist đã nhận xét công lao lớn nhất của Satoshi Nakamoto là tạo ra một hệ thống giao dịch phi tập trung không cần niềm tin (trust) mà chỉ cần các thuật toán. Nói cách khác công nghệ blockchain đã thay thế cho niềm tin vào quyền lực nhà nước hay giá trị nội tại của những thứ quí giá như vàng hay kim cương.
Không chỉ dừng ở bitcoin và các đồng tiền mật mã, blockchain với nguyên lý phi tập trung và không thể thay đổi được đang dần dần được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực cần sự chính xác của thông tin và trung thực của các bên tham gia. Cuối tháng 11/2017 Sàn giao dịch chứng khoán Úc (ASX) đã băt đầu thử nghiệm một hệ thống lưu ký chứng khoán ứng dụng công nghệ blockchain. Trước đó De Beers, công ty khai thác và kinh doanh kim cương lớn nhất thế giới, xúc tiến việc sử dụng blockchain cho một hệ thống lý lịch tất cả các viên kim cương do họ sản xuất. Blockchain đã trở thành thời thượng đến mức có những công ty cố gắn thuận ngữ này vào tên của minh để kích giá cổ phiếu như thời dotcom gần 20 năm trước.
Bỏ quả những đợt nhảy múa điên rồ của giá bitcoin hay phong trào nhà nhà ứng dụng blockchain, sự bùng phát của các thuật toán mật mã học trong các ứng dụng kinh tế, tài chính có thể là khởi đầu của những thay đổi xã hội sâu xa sau này. Satoshi Nakamoto phát minh ra cơ chế blockchain với mục đích tạo ra một đồng tiền xuyên biên giới không phụ thuộc vào nhà nước. Bitcoin tồn tại và vận hành dựa vào một cộng đồng gắn kết với nhau qua mạng Internet bất kể quốc tịch, mầu da. Hệ thống lưu ký chứng khoán sử dụng blockchain của ASX cũng vậy, nó loại bỏ vai trò của một cơ quan trung tâm giao toàn bộ việc vận hành và quản lý thông tin cho các thành viên trong hệ thống một cách dân chủ: ai cũng có tiếng nói như nhau và số đông sẽ thắng. Giáo sư Tyler Cowen đại học George Mason cho rằng việc đề cao (thành công) vai trò cộng đồng của bitcoin và công nghệ blockchain là một điểm sáng trong bối cảnh chính trị ngột ngạt hiện nay.
Không chỉ dừng ở các giao dịch tài chính, nguyên tắc đồng thuận cộng đồng thay thế cho quyền lực nhà nước thể hiện rõ hơn với các hợp đồng thông minh (smart contract) trên nền tảng Ethereum, một ứng dụng blockchain khác do Vitalik Buterin phát triển sau bitcoin vài năm. Với công cụ này nhiều loại giao dịch/khế ước dân sự trong tương lai sẽ không còn cần đến quản lý nhà nước. Sự bùng nổ các hoạt động huy động vốn (ICO) dựa vào hợp đồng thông minh trên Ethereum là một ví dụ. Cho dù nhiều quốc gia còn dè dặt với ICO, thậm chí cấm hoàn toàn hình thức này như ở Trung Quốc, ICO chắc chắn sẽ là đối thủ đáng gờm của IPO trong tương lai. Còn trước mắt bất chấp giá bitcoin nhảy như chong chóng nhiều dịch vụ chuyển tiền xuyên biên giới sử dụng hệ thống tiền tệ này (bitcoin rail) đang hoạt động rất hiệu quả cạnh tranh trực diện với các dịch vụ chuyển tiền truyền thống.
Chính tính chất xuyên biên giới của bitcoin nói riêng và công nghệ blockchain nói chung là một điểm sáng nữa mà nhà báo Matt Levine của Bloomberg đã chỉ ra. Trong bối cảnh toàn cầu hóa bị chựng lại do cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ở nhiều quốc gia phương Tây, các ứng dụng blockchain cho thấy những rào cản chính trị rồi sẽ bị công nghệ vượt qua. Tất nhiên còn rất lâu mới tới lúc quyền lực quốc gia thúc thủ trước blockchain hay các loại công nghệ khác nhưng một thế giới kết nối chặt chẽ hơn hay "phẳng" hơn là hệ quả tất yếu của xu hướng công nghệ này.
Có lẽ với Satoshi Nakamoto xây dựng được một cộng đồng không biên giới, công bằng, dân chủ (theo nghĩa mỗi máy tính là một lá phiếu - one CPU one vote) quan trọng hơn số tài sản hàng tỷ đô la vẫn nằm im lìm trong tài khoản gốc của hệ thống bitcoin. Dù số tài sản khổng lồ đó có thể bị bỏ phí, dù bitcoin có thể sẽ ra đi như nhiều đồng tiền khác trong lịch sử, công nghệ blockchain chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển và sẽ thách thức những thể chế/cấu trúc xã hội đã tồn tại hàng nghìn năm qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại.
[Một version của bài này đã được đăng trên TBKTSG ở đây.]
Sunday, November 20, 2016
US Election 2016
Tại sao Donald Trump thắng cử? Đã có rất rất nhiều người trả lời câu hỏi này nhưng dù đồng ý với đa số các các phân tích tôi vẫn thấy các câu trả lời chưa thực sự đầy đủ. Mọi người chủ yếu tập trung vào sự bất mãn của tầng lớp trung lưu da trắng bị mất việc vì toàn cầu hoá, chán ngán sự dối trá của giới chính trị gia establishment, hay nỗi lo sợ khủng bố cộng với sự kỳ thị các sắc dân nhập cư. Một số khác đổ lỗi cho Facebook giúp phe ủng hộ Trump lưu truyền các thông tin bịa đặt hay lá thư của giám đốc FBI James Comey ngày 28/10 làm thay đổi cán cân. Với tôi có ba lý do chính kết hợp chặt chẽ với nhau, thiếu một trong ba Trump đã không thể thắng. Ba lý do đó là: (i) đặc thù của hệ thống bầu cử tổng thống Mỹ thông qua đại cử tri, (ii) sai lầm và yếu kém trong chiến dịch tranh cử của Hillary Clinton, (iii) sự phân cực chính trị trong xã hội Mỹ.
Hệ thống Đại cử tri (Electoral College - EC)
Nếu cuộc bầu cử vừa rồi diễn ra ở một nước nào khác chứ không phải Mỹ, Hillary Clinton (HC) đã thắng cử vì bà ta có tổng số phiếu bầu (popular vote) cao hơn Donald Trump (DT). Đây là lần thứ tư trong lịch sử bầu cử tổng thống Mỹ mà ứng viên có số phiếu bầu phổ thông cao hơn thất bại vì thua số phiếu EC. Cả bốn lần bên thua cuộc đều là người của đảng Dân chủ, lần cuối cùng năm 2000 khi Al Gore thua George Bush. Hệ thống bầu cử tổng thống với cơ chế EC (và "winner take all" tại mỗi bang) khá giống với hệ thống bầu thượng viện của các nước theo thể chế liên bang. Nguyên tắc này cho phép các bang nhỏ có tiếng nói lớn hơn trong hệ thống chính trị quốc gia vì mọi bang có (một phần) trọng số bầu cử cố định bất kể diện tích/dân số nhỏ hay lớn. Tuy nhiên nhược điểm của nó là nhiều khi một bang/thành viên nhỏ có thể cản trở sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống, ví dụ trường hợp 3.6 triệu dân bang Wallonia của Bỉ đã suýt nữa phá vỡ hiệp định thương mại tự do giữa Canada và EU của hơn nửa tỷ người hồi tháng trước. Một nhược điểm nữa của hệ thống này có thể thấy trong nhiều thượng viện các nước liên bang là một vài chính trị gia độc lập hoặc của các đảng nhỏ có khuynh hướng populism có thể thắng cử.
Có lẽ nhiều bạn đã nhìn thấy đồ thị "Path to victory" này của Nate Silver, hình tượng hoá rất dễ hiểu tình hình phân bổ số phiếu EC ngay trước ngày bầu cử:
(Nguồn: fivethirtyeight.com)
Theo đó hai ứng viên xuất phát từ hai đầu là hai bang họ có xác suất thắng cử cao nhất, với HC là Washington DC, với DT là Nebraska. Các bang tiếp tục được xếp vào đồ thị từ hai phía theo thứ tự xác suất giảm dần. Điểm giữa của đồ thị là nơi mỗi ứng viên sẽ được 269 phiếu EC. Cho đến đêm trước cuộc bầu cử theo tính toán của Nate Silver bang New Hampshire rơi vào điểm giữa và HC có một chút lợi thế ở bang này. Tất nhiên đây chỉ là dự đoán của chuyên gia này và trừ các bang ở hẳn hai đầu, nghĩa là nơi hai ứng viên có ưu thế gần như tuyệt đối, các bang nằm hai bên đường trung tuyến hoàn toàn có thể có kết quả khác với dự báo. Tuy nhiên cả Nate Silver lẫn đa số các nhà bình luận khác đều cho rằng trận chiến thực sự sẽ ở các bang Florida, Iowa, Ohio, và North Carolina bên phải của đường trung tuyến, nghĩa là phe HC ở thế thượng phong. Vì DT nằm ở "chiếu dưới" nên ông ta buộc phải thắng hết ở 4 bang này, chỉ cần mất 1 trong số đó là cửa thắng của DT gần như không còn. Hầu hết mọi người, trong đó có tôi, cho rằng khả năng HC giành được 1 trong 4 bang đó khá cao, chưa kể kết quả bầu cử sớm của Florida và Nevada cho thấy tỷ lệ turnout của dân Mỹ Latin rất lớn, là dấu hiệu tốt cho HC.
Tám tháng trước ngày bầu cử nhà báo Jim Edwards (Business Insider) đọc được một bài phân tích trên Quora của Matthew Gagnon, một nhà phân tích chính trị ít tên tuổi, về khả năng Trump thắng cử. Gagnon dự đoán Trump sẽ thắng Pennsylvania, Ohio, Michigan và Wisconsin, đủ để vượt qua ngưỡng 270 EC vote. Lập luận của Gagnon hệt như của Michael Moore sau này, những bang nói trên dù có truyền thống bầu cho đảng Dân chủ suốt từ thập kỷ 1980 nhưng lần này tầng lớp trung niên da trắng mất việc vì toàn cầu hoá rất dễ bị thuyết phục bỏ phiếu cho Trump. Ở thời điểm Trump còn chưa thắng primary của đảng Cộng hoà Jim Edwards, sử dụng một công cụ mô phỏng của chính Nate Silver trên trang web 538, chỉ ra rằng khả năng này hoàn toàn có thể xảy ra. Con đường ngắn nhất và dễ nhất để Trump thắng cử là tập trung nguồn lực vận động tranh cử để lấy phiếu của nhóm cử tri non-college white. Tính toán của Edwards cho thấy nếu Trump tăng được tỷ lệ ủng hộ của nhóm này từ 62% (tỷ lệ ủng hộ Mitt Romney năm 2012) lên 69% thì cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn. Đến gần ngày bầu cử Edwards tính lại thì Trump chỉ cần tăng tỷ lệ này lên 65% là sẽ thắng. Kết quả theo exit polls ngày 8/11 Trump đã nâng được tỷ lệ nhóm non-college white bỏ phiếu cho mình lên 67%.
(Nguồn: nytimes.com)
Như vậy ngoài việc "tử thủ" các bang Florida, North Carolina, Ohio, và Iowa, Trump đã âm thầm tập hậu vào các bang Midwest/Rust-belt mà phe HC và đa số các nhà bình luận cho rằng đó là "Blue Wall" bất khả xâm phạm của đảng Dân chủ. Thực ra từ tháng 9/2016 Nate Silver đã nhận xét rằng phe Dân chủ có rủi ro là những bang này là khu vực "buộc phải thắng", chỉ cần mất một bang trong vùng Rust-belt là xác suất thắng cử của HC sẽ giảm nghiêm trọng. Vì simulation của Silver sử dụng giả định sai số các polls có positive correlation với nhau (nghĩa là nếu một bang bất ngờ chuyển màu thì những bang lân cận sẽ bị ảnh hưởng cùng hướng), Blue Wall của phe Dân chủ lại rất gần khu vực "battle ground" (North Carolina, Georgia) nên dự báo của Nate Silver cho HC xác suất thắng thấp hơn hẳn của các tổ chức dự báo khác (NYT, PEC). Điều này làm Silver bị cả hai phe công kích cho rằng ông ta dự báo sai. Nhưng nếu nhìn vào đồ thị "Path to victory" bên trên có thể thấy những bang Blue Wall đó quả thực nằm rất gần vùng nguy hiểm, nếu cử tri ở 4 bang battle ground ngả sang phía Trump thì xu hướng này dễ lan sang các bang lân cận.
Sau khi Trump thắng cử và số liệu phiếu bầu được thống kê, Nate Silver đưa ra một phân tích đáng giật mình. Theo đó nếu trong 100 người bỏ phiếu cho DT chỉ cần 1 người chuyển sang bỏ cho HC, nghĩa là chỉ cần xấp xỉ 2ppt swing rate, là HC đã chiến thắng với hơn 300 EC vote và Silver sẽ dự báo đúng kết quả của 49 trong tổng số 51 bang, không tệ so với năm 2012. Điều này ngoài việc cho thấy thực ra cuộc bầu cử năm nay sát nút hơn tất cả các dự đoán trước đó, kể cả của Nate Silver và của chính phe Trump, nhưng nó cũng chỉ ra một điểm yếu quan trọng của hệ thống EC bầu cử tổng thống Mỹ. Nhìn lại đồ thị "Path to victory" bên trên bạn có thể thấy thực ra tổng thống Mỹ được quyết định bởi khoảng trên dưới 10 bang ở giữa chứ không phải toàn bộ 51 bang. Do đó ứng cử viên nào thuyết phục được cử tri ở những bang này thì nhiều khả năng sẽ giành thắng lợi, bất kể đa số dân chúng có đồng ý với ông/bà ta hay không. Trong kỳ bầu cử này 10 bang ở giữa đó có demography khá đồng nhất và có những lo lắng và lợi ích rất tương đồng nên Trump dễ đàng dụ được bằng một gói chính sách populism kết hợp protectionism với anti-immigration. Cho dù không tán thành hầu hết các chính sách/quan điểm của DT tôi không thể không đồng ý với phát biểu của ông ta năm 2012 là hệ thống EC của Mỹ rất phản dân chủ ở thời đại hiện nay. Nó không còn bảo vệ quyền lợi của các bang nhỏ nữa mà giúp cho một vài nhóm cử tri tình cờ rơi vào khoảng 10 bang ở giữa có tiếng nói quyết định.
Chiến dịch tranh cử của Hillary Clinton
Năm 2012 Obama thắng cử vang dội nhờ một phần vào việc phân tích số liệu trong quá trình tranh cử. Bởi vậy không khó đoán cả phe HC lẫn DT đều đầu tư vào các hệ thống thu thập và phân tích số liệu trong lần bầu cử này. Tổng budget chiến dịch tranh cử của HC gấp đôi của DT nên không khó đoán HC chi nhiều hơn cho hoạt động phân tích số liệu. Tuy nhiên nhiều tiền chưa chắc đã chất lượng, những tiết lộ sau cuộc bầu cử cho biết thuật toán Ada mà phe HC sử dụng đã có những dự báo sai lầm. Cụ thể, dù Ada dự đoán đúng Pennsylvania có rủi ro, nó đã quá chủ quan với những bang khác trong "Blue Wall". Kết quả là bắt chấp DT đã đến Wisconsin vận động cử tri nhiều lần, HC không một lần dừng lại bang này trong suốt quá trình tranh cử vì đinh ninh rằng mình sẽ dễ dàng thắng ở đây. Cho đến giữa tháng 10 phe HC đã chủ quan đến mức cho rằng mình chắc chắn thắng nên bắt đầu quay ra vận động cho các ứng viên thượng viện và governor của đảng Dân chủ (down-ballot vote) nên đã phung phí nguồn lực ở những bang cực đỏ như Texas và Arizona, trong khi Trump vẫn kiên trì tấn công Rust-belt. Phải đến sát ngày bầu cử Ada mới phát hiện ra tình hình có vẻ nguy hiểm ở Michigan, phe HC lập tức dồn lực vào bang này, cử cả Bill và Obama đến vận động như đã quá muộn. Kết quả turnout ở Detroit, thành trì của phe Dân chủ ở Michigan, quá thấp không đủ để lật ngược tình thế trong toàn bang.
Tất nhiên thuật toán chỉ là một phần, số liệu đầu vào mới là yếu tố quyết định. Ada, giống như tất cả các mô hình dự báo khác đều sử dụng số liệu polls ở cấp bang và cấp liên bang. Tính trung bình các polls đó đánh giá thấp DT khoảng 3ppt, cao hơn nhiều so với swing rate cần thiết để thay đổi kết quả bầu cử như Nate Silver đã tính toán sau này. Tất nhiên bản thân phe DT cũng sử dụng số liệu của các polls nên mô hình của họ đến trước ngày bầu cử cũng chỉ dự đoán xác suất thắng của Trump xấp xỉ 30%, nghĩa là không khác mấy Nate Silver. Phe DT thuê Cambridge Analytica, một công ty chuyên xử lý/phân tích dữ liệu, chạy mô hình cho mình. Công ty này là chi nhánh Mỹ của SCL Group ở London, một công ty số liệu đã giúp phe Leave thắng trong cuộc trưng cầu dân ý hồi tháng 6 ở Anh. Phân tích số liệu cử tri và hệ thống EC, Cambridge Analytica đã có kết luận khá giống Gagnon là Trump phải tập trung vào giới cử tri trung niên da trắng ở ba bang khu vực Rusk-belt là Michigan, Wisconsin và Pennsylvania. Đó là lý do tại sao DT đã rất tích cực vận động tranh cử ở khu vực này bất chấp bị chê bai là húc đầu vào đá. Vài ngày trước bầu cử Cambridge Analytica đã xác định Trump sẽ thắng khoảng 2-2.5ppt ở đây, điều mà hầu hết các local polls ở khu vực này dự báo sai. Tuy nhiên cũng cần nhắc lại trừ Wisconsin có swing rate khoảng 8ppt, các bang Blue Wall và 4 bang battle ground chỉ có sai số trong khoảng 1-3ppt, nằm trong ngưỡng sai số cho phép. Có điều đúng như lập luận của Nate Silver, các bang cạnh nhau khi có sai số đã cùng "rủ nhau" ngả sang phe DT, dù không quá lớn nhưng đủ để lật ngược thế cờ.
Chiến dịch tranh cử của phe HC không chỉ kém hơn về mặt phân tích số liệu. Với nguồn lực vượt trội, được vô số celebrity cũng như các CEO nổi tiếng ủng hộ, được hầu như tất cả các tờ báo lớn, kênh truyền hình uy tín endorse, HC đã không thể kéo nhiều cử tri của mình đến các hòm phiếu ngày 8/11 như Obama 4 năm trước đó. Không chỉ đa số cử tri thuộc nhóm non-college white, 58% toàn bộ nhóm dân da trắng, nhóm cử tri lớn nhất, đã bỏ phiếu cho Trump. Thậm chí tỷ lệ woman-college-white ngả về phía DT cũng lớn hơn phía HC bất chấp những quan điểm/phát biểu cực kỳ thô lỗ/kỳ thị giới tính của ứng cử viên này. Kết quả exit poll dưới đây cho thấy HC đã mất phiếu của tất cả các sắc dân chứ không chỉ dân da trắng so với Obama năm 2012, một bằng chứng rõ ràng về sự kém cỏi của kỳ vận động tranh cử của phe Dân chủ.
(Nguồn: nytimes.com)
Một điểm yếu quan trọng nữa là HC đã mất nhiều phiếu hơn cho nhóm cử tri độc lập, đảng Xanh (Green) và đảng Tự do (Libertarian), kém DT 6ppt. Bên cạnh đó dù giành được 7% phiếu bầu của các cử tri Cộng hoà nhưng HC lại bị mất 9% từ chính cử tri của đảng của mình, thậm chí bị mất 14% cử tri LGBT vào tay Trump. Bất kể tính khí thất thường và vô số cảnh báo từ giới quân sự và an ninh không được để Trump nắm giữ nút khai hoả vũ khí hạt nhân, HC chỉ được 34% quân nhân ủng hộ so với 61% dành cho một kẻ không những đã trốn quân dịch mà còn công khai dè bửu John McCain và Humauyn Khan, những người hùng thực sự của quân đội Mỹ. Còn nhiều con số thống kê exit poll khác cho thấy đối đầu với một đối thủ đầy scandal như Trump nhưng cuộc vận động tranh cử của HC đã không giành được ưu thế tuyệt đối, để rồi bức thư của Comey ngày 28/10 trở thành cọng rơm cuối cùng đánh sụm lưng con lừa Dân chủ.Sai lầm lớn nhất của chiến dịch tranh cử của HC là đã bị cuốn theo trào lưu nói xấu, công kích cá nhân vô cùng tồi tệ của Trump. Thay vì tập trung phân tích sự nguy hiểm, sai lầm, trống rỗng trong các chính sách populism của Trump, HC lại chạy đua nói xấu cá nhân, điều mà chắc chắn bà ta không thể thắng một kẻ mạnh mồm/trơ trẽn như Trump. Nhiều nhà bình luận cho rằng cuộc bầu cử năm 2016 này "ugly" nhất trong lịch sử Mỹ vì hai ứng viên chỉ chăm chăm bới móc, đả kích nhau. Vận động tranh cử như vậy không những bỏ qua các thảo luận chính sách quan trọng mà còn làm suy yếu niềm tin và sự tôn trọng của cử tri đối với hai bên, cả bên thắng cuộc sau này. Không phải ngẫu nhiên mà những quốc gia độc tài như Nga hay TQ "hả hê" nhìn Trump thắng cử, đó là bằng chứng rõ nhất cho tuyên truyền của họ là dân chủ phương Tây thực ra chỉ là một trò hề giả tạo. Trong gần 6 tháng của chiến dịch tranh cử chính thức, HC (và DT) đã làm hình ảnh của giới chính trị gia tồi tệ hơn trong mắt người dân, cả ở Mỹ lẫn những dân tộc đang mong muốn hướng đến một xã hội dân chủ như Mỹ.
Sự phân cực chính trị trong xã hội Mỹ
Đã có rất nhiều phân tích những lý do kinh tế/xã hội và cả tâm lý chán ngán giới chính trị gia establishment dẫn đến thất bại của HC. Tôi sẽ không nói thêm về những vấn đề đó nữa mà muốn chỉ ra một điểm ít nhà bình luận quan tâm đến: tính phân cực trong cơ cấu chính trị Mỹ. Ở hầu hết các nền dân chủ trưởng thành (Mỹ, Anh, Úc, Canada...) hệ thống chính trị có hai đảng lớn chi phối, thường một đảng theo khuynh hướng bảo thủ (conservative), đảng kia theo khunh hướng tự do (liberal) thay nhau nắm quyền. Quan điểm trung tâm của hai đảng có lúc gần, lúc xa nhau, phản ánh sự phân cực chính trị trong dân chúng. Khi sự phân cực trở nên gay gắt hệ thống chính trị sẽ khó vận hành vì hai bên ít còn điểm chung nên không dễ thoả hiệp. Đây là đặc điểm của hệ thống chính trị Mỹ trước cuộc bầu cử vừa rồi khi phe Cộng hoà bị nhánh Tea Party đẩy sang cực hữu còn phe Dân chủ bị Occupy Wall Street đẩy sang cực tả từ vài năm trước. Chính quyền Obama là nạn nhân của tình trạng phân cực này khi hầu hết các chính sách mấy năm sau này đều bị QH Mỹ do phe Cộng hoà nắm ngăn cản, bộ máy hành chính thậm chí còn bị "shutdown" hơn 2 tuần cuối năm 2013. Mặc dù approval rating của Obama vài tháng cuối vượt quá 50%, cao hơn tất cả các tổng thống Mỹ trừ Bill Clinton ở cuối nhiệm kỳ trong vài thập kỷ lại đây, cử tri Cộng hoà với quan điểm ngày càng cực hữu đã không công nhật bất cứ thành quả nào của ông: từ việc khôi phục kinh tế sau khủng hoảng đến mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế cho hàng chục triệu người nghèo. Với họ, và nhất là với đa số nhóm non-college white, HC chỉ là một nối tiếp mờ nhạt của Obama. Họ muốn thay đổi dù phải bầu cho một người như Trump.
Một hệ quả nữa của sự phân cực là khi cuộc đua vào vị trí ứng viên của hai đảng chính thức bắt đầu cuối năm ngoái những thành phần cực đoan của cả hai phía dễ dàng nổi lên. Phe Dân chủ có Bernie Sanders, phe Cộng hoà có Ted Cruz, Rand Paul, Ben Carson và tất nhiên là Donald Trump. Trump với bản tính "bully" của mình đã sử dụng một chiến thuật vô cùng tàn khốc triệt hạ không thương tiếc các đối thủ khác đồng thời nhử ra những chính sách tận cùng của cánh hữu: lùng bắt và trục xuất hàng triêu người nhập cư lậu, xây tường ở biên giới rồi bắt Mexico phải trả chi phí, sẵn sàng vi phạm nhân quyền cho mục tiêu chống khủng bố (tra tấn tù binh, bắt/giết gia đình của các nghi can khủng bố), cấm vô giới hạn phá thai đồng thời thả nổi vô giới hạn quyền sở hữu súng. Khi cuộc thảm sát ở nhà hát Bataclan xảy ra Trump tuyên bố nếu ông ta có mặt ở đó thì tình hình đã khác vì ông ta luôn đem súng theo người. Trump cũng làm hài lòng giới establishment Cộng hoà với lời hứa sẽ huỷ bỏ Obamacare, Dodd-Frank, và cách chính sách bảo vệ môi trường/chống biến đổi khí hậu, đồng thời tăng chi tiêu quốc phòng và cắt giảm thuế cho doanh nghiệp/giới giầu có. Tuy nhiên ông ta thừa thông minh để hiểu chỉ có phiếu của phe cực hữu sẽ không thể đủ, muốn thắng cử phải giành được ủng hộ của một bộ phận cánh tả. Đó là lý do Trump tuyên bố sẽ huỷ bỏ TPP, đàm phán lại NAFTA, đánh 45% thuế lên hàng hoá nhập khẩu từ TQ.
Platform tranh cử cực kỳ khôn ngoan này đáng ra phải đưa DT thành ứng cử viên con cưng của đảng Cộng hoà. Nhưng tính khí bất thường/bốc đồng/tự phụ của ông ta cộng với vô số scandal và những lời phát biểu thoá mạ đối thủ rất vô văn hoá, những lời nói dối/bịa đặt không ngượng mồm đã làm nhiều cử tri lẫn giới elite của cả hai đảng cho rằng ông ta không phù hợp cho vị trí lãnh đạo cao nhất nước Mỹ. Quan điểm khá thân thiện với Nga/Putin và ý tưởng rút dần vai trò sheriff của Mỹ trên trường quốc tế (isolationism) cũng làm đảng Cộng hoà lo ngại. Nhưng ở thời điểm 2016 đảng Cộng hoà đã bị đẩy sang cực hữu quá xa nên những ứng viên trung dung hơn như Jeff Bush, Marco Rubio, John Kasich không chịu nổi nhiệt tấn công của Trump dần dần rớt lại trong vòng primary. Đảng Cộng hoà đã phải "bịt mũi" đề cử Trump làm "torchbearer" cho mình, trong khi giới establishment của đảng này tìm cách lánh xa Trump như lánh xa con hủi. Hàng chục chính trị gia của đảng Cộng hoà, từ các cựu tổng thống đến các thượng/hạ nghị sĩ tuyên bố không ủng hộ Trump. Ngay cả Koch brothers cũng không ủng hộ và donate cho Trump, điều chưa từng xảy ra với các ứng viên Cộng hoà khác. Nhưng Trump không cần, ông ta hiểu rằng mình đã bỏ túi phần lớn cử tri của đảng Cộng hoà, những người mà giới bình luận chính trị sau này gọi là "coming home voters". Vấn đề chỉ còn là làm sau lấy được Rust-belt.
Trước ngày bầu cử tôi đã thầm nghĩ "I'm going to lose faith in humanity if Hillary won't win landslide". Tôi không tin đa số cử tri Mỹ có thể một tay bịt mũi một tay bầu cho một kẻ vô đạo đức như vậy, hay nói theo ngôn ngữ báo chí tôi không tin vào shy/silent voters sẽ xuất hiện lật ngược kết quả các polls trước đó. Trong xã hội Mỹ thế nào cũng có những thành phần bigotry/racist/misogynous/xenophobic thực tâm ủng hộ Trump, nhưng trong thế kỷ 21 này những kẻ đó không thể là đa số ngay cả ở những quốc gia kém phát triển hơn Mỹ nhiều lần. Lập luận cho rằng có nhiều người không muốn trả lời poll họ sẽ bầu cho Trump vì họ xấu hổ phải công khai điều đó càng chứng tỏ những giá trị Trump cổ suý/bộc lộ không phù hợp với hệ thống đạo đức/giá trị hiện tại (nên người ta mới lo ngại/xấu hổ khi phải nói ra). Nhưng tôi đã nhầm, hoặc tỷ lệ cử tri có quan điểm bigotry/racist/misogynous/xenophobic nhiều hơn tôi tưởng hoặc số người dù không chấp nhận những quan điểm đó nhưng vẫn trung thành với đảng của mình (coming home republicans), đặt lợi ích của đảng lên cao hơn lợi ích đất nước và các giá trị đạo đức của họ, đã giúp DT lật ngược thế cờ. Với tôi dù Trump có hứa sẽ giành lại HS-TS cho VN tôi cũng không bao giờ ủng hộ ông ta, điều đó vượt qua lằn ranh đạo đức của tôi. "Shame on you America" là phản ứng của tôi sau khi Trump thắng cử, tôi e rằng đó không phải lần cuối cùng tôi thốt lên câu đó trong 4 năm tới.
(Nguồn: nytimes.com)
Lời kết
Như vậy đặc thù của hệ thống bầu cử EC của Mỹ và chiến dịch tranh cử kém hiệu quả của HC là điều kiện cần, sự phân cực chính trị thái quá và lòng trung thành của đa số cử tri Mỹ với đảng của mình là điều kiện đủ để đưa một ứng cử viên như DT lên thành tổng thống. Đó là rủi ro của một hệ thống chính trị dân chủ và rủi ro này đang gia tăng trong một vài năm gần đây. Không chỉ ở Mỹ và không chỉ Trump, một số chính trị gia populist khác đã giành được phiếu một cách khá bất ngờ. Một số người đổ lỗi cho Facebook và các mạng xã hội tạo điều kiện cho những phong trào populism tuyên truyền những quan điểm/thông tin bịa đặt, một số viện dẫn Thomas Piketty cho rằng chủ nghĩa tư bản sẽ phải đối mặt với tình trạng này khi hố ngăn cách giầu nghèo càng ngày càng rộng, một phần vì toàn cầu hoá. Dù lý do là gì và giải pháp của thế giới thế nào trước phong trào populism/nationalism, sự trỗi dậy của Trump, Durtete, Le Pen, Farage đã làm tăng thêm uncertainty đáng kể cho những thế hệ tương lai. Có thể nói humanity đã trở nên uglier, dù chưa tệ hại như thời Hitler, Stalin, Mao, nhưng đủ làm tôi cảm thấy lo ngại cho thế hệ con cháu mình. Đã đến lúc tôi phải nghĩ cách "hedge" cho gia đình mình như đã làm cho các investment portfolio mà tôi quản lý.
Nhưng dù sao tôi vẫn tin tưởng vào thể chế chính trị dân chủ dẫu nó có nhiều khiếm khuyết. Bởi thế giới đã thử nghiệm nhiều thể chế khác, những thứ từng được tán tụng sẽ tươi đẹp hơn, để cuối cùng dẫn đến những xã hội mà nhân phẩm và nhân quyền của số đông thấp cổ bé họng bị chà đạp. Chí ít, dân chủ kiểu Mỹ, dù có bị gán cho đủ thứ xấu xa cũng còn đảm bảo cho một nhóm cử tri nhỏ ở các bang Midwest/Rust-belt, những người bị HC gọi là deplorable, lên tiếng để thay đổi thành công hệ thống mà không cần sử dụng/không phải đối mặt với bạo lực.
[Note: Một version của bài viết này đã được đăng trên soha.vn.]
[Update (copy từ comment bên FB): Xin nói thêm một điểm cho rõ. Tôi viết bài này hoàn toàn là một "intellectual exercise" với mục đích trả lời cho câu hỏi tại sao DT thắng cử (ngược với điều tôi và nhiều người dự đoán). Tôi không có ý định thuyết phục ai thay đổi quan điểm chính trị, cách nhìn về tính cách hay chính sách của DT, nhất là với các fan "cuồng Trump". Tôi cũng không phân tích ảnh hưởng của các chính sách của DT với nước Mỹ/thế giới/VN trong tương lai (trừ một câu cuối bài có tính chất cá nhân).
Bài này dài và khó đọc, xin nêu lại 3 điểm chính:
- Hệ thống EC ở thời điểm hiện tại cho phép 1 ứng cử viên chỉ cần tập trung vào khoảng 10 bang ở giữa thay vì cả 51 bang. Demography của 10 bang này năm nay (trung niên da trắng ít học bị thua thiệt vì toàn cầu hoá) giúp DT thắng cử với swing rate rất nhỏ.
- HC campaign đã quá tệ/arrogant khi chủ quan bỏ qua khu vực rust belt, kém xa Obama 2 kỳ bầu cử trước trong việc tăng turnout và lôi kéo independent/green ủng hộ cho mình. HC tự làm xấu hình ảnh của mình khi cố chạy đua thoá mạ cá nhân với DT (xem debate của HC vs DT rất bực mình, dù trước đó trong vòng primary HC debate với Bernie Sanders hoàn toàn về chính sách rất lịch sự).
- Chính trị Mỹ từ trước tới giờ đã phân cực hơn hầu hết các nước phát triển khác (Canada, Úc, châu Âu), năm nay còn tệ hại hơn. Sự phân cực này giúp DT có thể đưa ra những chính sách rất cựu đoan mà không sợ bị mất phiếu. Trump đã từng nói rằng dù ông ta có bắn chết người giữa ban ngày ở Fifth avenue (NY) thì những người ủng hộ vẫn bầu cho ông ta.
Tất nhiên còn có nhiều yếu tố khác nữa nhưng theo tôi đây là ba nguyên nhân căn bản, DT cần cả ba để thắng. Thực tế DT đã thắng thuyết phục, HC/Obama đã chấp nhận thua rất đúng mực và đúng luật. Dù rất ghét DT (nhân cách và chính sách) nhưng tôi nghĩ chấp nhận 4 năm "tổng thống" Trump là điều (cử tri Mỹ) phải làm, chống đối sẽ chỉ có hại cho nước Mỹ và nền tảng dân chủ. Tôi đồng ý với quan điểm của Luigi Zingales những người ghét DT không nên biểu tình vào lúc này, nên dành sức lực của mình cho những cuộc biểu tình trong 4 năm tới khi Trump đưa ra những chính sách sai trái. Hay như quan điểm của Mark Zuckerberg và Jamie Dimon trong thư gửi cho nhân viên sau ngày bầu cử, hãy chấp nhận khác biệt (trong quan điểm) để tiếp tục cùng nhau làm việc, hận thù/hằn học/bực tức không bao giờ đem đến điều gì tốt đẹp.]
Sunday, November 6, 2016
SDR
Vì đặc tính và phương thức sử dụng rất phức tạp của SDR đã có nhiều ngộ nhận về khái niệm trên báo chí và ngay cả trong giới chuyên gia. Trước hết SDR không phải là một đồng tiền do IMF phát hành tương tự như đồng tiền của các quốc gia, dù quả thực Keynes đã có ý tưởng như vậy khi IMF thành lập năm 1945. SDR cũng không phải là một quĩ của IMF bao gồm 5 đồng tiền mà đồng Nhân dân tệ (CNY) của TQ vừa được đưa vào. Nhầm lẫn này xuất phát từ chính cách định nghĩa của IMF gọi SDR là một “tài sản dự trữ quốc tế" (international reserve asset), thực ra IMF không hề có một tài sản nào (USD, EUR, CNY…) đằng sau số SDR đã được phát hành và trừ một số ngoại lệ hãn hữu nó không được dùng trong mua bán trao đổi hàng hoá/dịch vụ thực. Vậy bản chất của SDR là gì và định nghĩa “international reserve asset" của IMF phải được hiểu như thế nào?
Trước hết cần nhắc lại mỗi (ngân hàng trung ương) quốc gia đều có một “dự trữ quốc gia" (national reserve), thường bao gồm hai thành phần: dự trữ ngoại hối và dự trữ vàng. Dự trữ ngoại hối về bản chất tương đương với dự trữ thanh khoản (liquidity reserve) trong các ngân hàng thương mại, có chức năng giúp các ngân hàng phòng hờ bị mất cân bằng thanh khoản. Một ngân hàng thương mại bị mất cân bằng thanh khoản khi ở môt thời điểm nào đó số tiền mặt khách hàng rút ra (bao gồm cả chuyển khoản sang ngân hàng khác) lớn hơn số tiền mặt được gửi vào. Khi đó ngân hàng phải sử dụng dự trữ để bù đắp cho sự mất cân bằng nói trên.
Dự trữ ngoại hối của một quốc gia có vai trò tương tự, khi dòng ngoại tệ chảy ra lớn hơn dòng chảy vào dự trữ sẽ được sử dụng để bù vào phần thiếu hụt. Vì một quốc gia có thể giao dịch cùng lúc bằng nhiều đồng tiền khác nhau nên dự trữ ngoại hối cũng có thể bao gồm nhiều loại ngoại tệ. Những đồng tiền được một quốc gia đưa vào dự trữ ngoại hối của mình tuỳ thuộc vào quan hệ ngoại thương và đầu tư nước ngoài chứ không do IMF hay một tổ chức nào đó ấn định. Những đồng tiền dự trữ phổ thông nhất trên thế giới được giới kinh tế tài chính gọi (một cách không chính thức) là “đồng tiền dự trữ quốc tế”. Hàng quí IMF thống kê dự trữ ngoại hối của các nước và công bố tỷ lệ các đồng tiền được dự trữ (trong một database tên là COFER). Thống kê Q2 2016 cho bảy “đồng tiền dự trữ quốc tế" phổ biến nhất là USD chiếm 63.4%, EUR 20.2%, GBP 4.7%, JPY 4.5%, AUD 2%, CAD 1.9%, CHF 0.3%. Tỷ lệ này khá tương đồng với tỷ lệ các đồng tiền được mua bán trên thị trường tài chính quốc tế (spot/forwards/NDF) và cũng không khác lắm tổng giá trị giao dịch liên ngân hàng quốc tế thông qua hệ thống SWIFT.
Như đã giải thích bên trên dự trữ ngoại hối được sử dụng cho những thời điểm thanh toán quốc tế bị mất cân bằng, tương tự như dự trữ thanh khoản được các ngân hàng thương mại sử dụng khi họ bị mất cân bằng thanh khoản. Cũng tương tự như dự trữ thanh khoản, dự trữ ngoại hối gây tốn kém cho các quốc gia nên thường họ chỉ tích luỹ quĩ dự trữ này ở một mức tối thiểu, ví dụ theo nguyên tắc bằng giá trị của 3 tháng nhập khẩu mà IMF khuyến cáo. Tuy nhiên vẫn có môt số ngoại lệ như TQ hay Nga giữ một (vài) dự trữ ngoại hối lớn hơn nhiều nhu cầu đảm bảo cân bằng thanh khoản quốc tế. Những nước này giữ dự trữ ngoại hối lớn cho các mục tiêu kinh tế khác mà tôi sẽ không bàn thêm ở đây. Nhưng dù dự trữ ngoại hối có lớn thế nào đi nữa một nước vẫn có rủi ro bị mất thanh khoản, nghĩa là dự trữ không đủ bù đắp cho mất cân đối tạm thời, nhất là trong những giai đoạn khủng hoảng. Đó là một trong những lý do IMF ra đời năm 1945 và SDR được đề xuất năm 1969: xây dựng một (vài) cơ chế chia sẻ thanh khoản quốc tế để giảm bớt gánh nặng các quốc gia phải tiếp tục gia tăng dự trữ ngoại hối khi dòng vốn vào ra càng ngày càng lớn.
Tạm thời chưa bàn về các chức năng cho vay/giải cứu khác của IMF, cơ chế SDR về bản chất là một dạng quĩ danh nghĩa khi các quốc gia góp một phần dự trữ ngoại hối của mình vào để sử dụng chung khi một nước nào đó có nhu cầu. Gọi là quĩ danh nghĩa (notional) vì trên thực tế các nước không chuyển tiền cho IMF giữ/quản lý mà họ chỉ cam kết là nếu thành viên IMF nào cần vay theo cơ chế SDR thì họ sẽ cho vay không điều kiện. Đổi lại khi cần ngoại tệ để cân bằng thanh khoản quốc tế họ cũng có thể yêu cầu được vay từ các thành viên khác theo cơ chế này. Việc cho vay là tự nguyện nhưng IMF vẫn có cơ chế bắt buộc các thanh viên dư thừa thanh khoản phải cho vay nếu cần. Lưu ý cho đến thời điểm này tôi vẫn dùng thuật ngữ “cơ chế SDR" chứ không nói “đồng SDR", việc vay/cho vay dự trữ ngoại hối giữa các thành viên IMF là “cơ chế SDR" còn giá trị của các khoản vay sẽ được bút toán bằng “đồng SDR" như giải thích bên dưới.
Bạn có thể thắc mắc bên trên tôi đã viết SDR không phải là một đồng tiền do IMF phát hành tại sao bây giờ lại xuất hiện “đồng SDR". Nhớ lại một đồng tiền (quốc gia) có ba chức năng chính: phương tiện thanh toán (medium of exchange), lưu giữ giá trị (store of value), và đơn vị kế toán (unit of account). Đồng SDR không phải là tiền vì nó (hầu như) không có hai chức năng đầu mà chỉ có chức năng thứ ba. Nghĩa là nó chỉ tồn tại trên sổ sách của IMF để ghi nhận các khoản vay/cho vay/góp vốn của các thành viên. Ngoại trừ các lý do lịch sử và chính trị, IMF và nhiều nhà kinh tế lập luận rằng sử dụng một rổ tiền tệ để bút toán các khoản vay/cho vay/góp vốn sẽ giảm bớt rủi ro tỷ giá cho các thành viên. Bởi vậy dù một nước vay một ngoại tệ nào đó thông qua cơ chế SDR số tiền vay luôn được qui đổi từ đồng tiền thực sự được trao đổi thành SDR với tỷ giá do IMF tính toán dựa vào tỷ giá thị trường và tỷ trọng các đồng tiền trong rổ SDR.
Ví dụ nếu NHNN VN vay 100 tỷ yên Nhật (JPY) từ Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thông qua cơ chế SDR vào ngày 3/10/2016 thì khoản nợ đó có giá trị qui đổi ra SDR là 703.94 triệu, sử dụng tỷ giá SDR-USD và USD-JPY ngày hôm đó. VN sẽ có nghĩa vụ trả tiền lãi cũng như nợ gốc khi đáo hạn cho khoản 703.94 triệu SDR này. Tất nhiên cả khi vay cũng như khi trả lãi/gốc đồng tiền thanh toán giữa VN và Nhật vẫn là đồng yên, số lượng cụ thể được được tính từ giá trị SDR với tỷ giá SDR-USD và USD-JPY vào ngày thành toán. Tỷ giá USD-JPY là tỷ giá thị trường, còn tỷ giá SDR-USD được (IMF) tính dựa vào tỷ giá thị trường (với USD) của các đồng tiền trong rổ SDR (đồng USD ngầm định có tỷ giá là 1). Rổ SDR, bao gồm các đồng tiền được chọn và tỷ trọng của chúng, mà IMF dựa vào đó để tính tỷ giá SDR-USD hàng ngày được IMF công bố 5 năm một lần. Lần cuối cùng là ngày 1/10/2016, tuy nhiên việc đồng CNY được đưa thêm vào và tỷ trọng của 5 đồng tiền trong rổ đã được quyết định từ cuối năm 2015.
Quay lại định nghĩa “international reserve asset” của IMF. Như vậy asset ở đây phải hiểu là hệ thống SDR bao gồm (notional) assets mà các thành viên cam kết đóng góp vào. Tỷ lệ đóng góp được IMF phân bổ đúng bằng tỷ lệ quota (hay "cổ phần") của các thành viên và đo bằng "đồng SDR". Kể từ khi ra đời (năm 1969) IMF chỉ "phát hành", theo nghĩa "phân bổ", SDR vài lần với tổng số xấp xỉ 200 tỷ - rất nhỏ so với tổng dự trữ ngoại hối của các thành viên. Vì không ai phải đóng tiền vào khi được phân bổ SDR, số SDR mới này được coi như một dạng "reserve asset" bổ sung cho dự trữ quốc gia (ngoại hối + vàng). Nghĩa là dự trữ quốc gia của một nước được tăng lên thêm một khoản bằng với lượng SDR mà IMF phân bổ. Số dư tài khoản SDR của các nước tại IMF sẽ thay đổi khi họ vay/cho vay thông qua "hệ thống SDR", do đó tỷ lệ nắm giữ SDR của các nước thay đổi theo thời gian không cố định như tỷ lệ quota của họ. Các nước "con nợ" sẽ có tỷ lệ nắm giữ SDR thấp hơn tỷ lệ quota.
Tóm lại hệ thống SDR rất phức tạp và không mấy thành công (vì quá nhỏ). Nó ra đời vì IMF không thể sử dụng đồng USD một cách chính thức thay cho/bên cạnh vàng khi chế độ bản vị vàng sụp đổ. Việc đưa đồng CNY hay các đồng tiền khác vào rổ SDR trong tương lai phần nhiều sẽ là lý do chính trị và có tính biểu tượng là chính. Vai trò và ảnh hưởng của một đồng tiền quốc gia trên thị trường tài chính quốc tế vẫn được đo lường bằng các tỷ lệ giao dịch ngoại hối hay tỷ lệ dự trữ quốc gia (thống kê COFER) hơn là trọng số trong rổ SDR. Nhưng với nhiều nước tính biểu tượng cũng rất quan trọng, chí ít nó là dấu mộc của IMF cho tên tuổi của mình trên trường quốc tế.
Sunday, June 26, 2016
Brexit diary
Tôi thường không chia sẻ công việc cá nhân lên blog và mạng xã hội, nhưng đây là ngoại lệ vì muốn ghi lại một sự kiện rất quan trọng trong lịch sử finance thế giới và của cá nhân. Bài này có nhiều thuật ngữ chuyên môn và những chi tiết kỹ thuật tôi xin phép không giải thích thêm, nhiều chi tiết về trading/strategy tôi cũng không muốn/được phép nói rõ. Một số thời điểm và số liệu trong bài có thể không chính xác, mong các bạn thông cảm. Bài này cũng không tranh luận Brexit đúng hay sai, chỉ thuần tuý về finance.
-2W
2 tuần trước ngày bỏ phiếu dù hầu hết các polls cho thấy phe Leave sẽ thắng, phân tích của giới kinh tế và chính trị cho rằng Brexit khó xảy ra vì thiệt hại cho kinh tế Anh sẽ rất lớn. Không chỉ các IB/broker, hầu hết các báo lớn, các tổ chức quốc tế, central bankers và các đảng chính trị lớn của Anh (trừ UKIP) đều ủng hộ Remain. Xác suất Remain trên thị trường cá cược, thường đúng hơn kết quả polls, cũng vậy. Một điểm khá quan trọng nữa là tâm lý sợ rủi ro nên muốn giữ status quo, nhiều người đến phút cuối sẽ sợ thay đổi vì hiện tại dù không đúng như ý mình nhưng là thứ mình đã biết, vote Leave chưa biết nước Anh sẽ về đâu. Đây là lý do nhiều cuộc referendum khác thất bại, cuộc trưng cầu tách Scotland năm 2014 là một ví dụ.
Họp IC (investment committee) tôi đề xuất đặt cược vào cửa Remain, chủ yếu là long GBP và FTSE. Thực ra strategy này không hẳn cá cược vào một sự kiện chính trị, các mô hình dự báo của chúng tôi đều cho thấy GBP và FTSE đã undervalued khá nhiều vì thị trường lo lắng khả năng Brexit. Nếu không có referendum tôi vẫn sẽ long GBP và FTSE nhưng strategy sẽ hơi khác một chút và có lower leverage. Đáng ra betting vào Remain còn có thể short Gilt, nhưng các mô hình FI (fixed income) của tôi bị trục trặc nên đã phải stop-out ra trước đó và chưa kịp chỉnh sửa. Như vậy portfolio của tôi chỉ có equities và currencies nhưng tôi khá confident vì không mấy khi nhận định tình hình thị trường và kết quả mô hình support nhau như vậy.
-1W
Một tuần trước giờ G, portfolio bị âm nhẹ vì phe Leave càng ngày càng thắng thế trong các polls, betting odds bắt đầu cân bằng, GBP mất giá còn vàng liên tục lập đỉnh. Đúng lúc đó Jo Cox bị ám sát làm dư luận Anh đổi chiều rất nhanh. Hai ngày sau poll đầu tiên cho thấy Remain vượt lên, betting odds đổi chiều và các IB/brokers tiếp tục khẳng định vào Remain, lần này rất chắc chắn. Tất cả các thị trường, từ equity, FI, currency đến commodity và oil đều không có dấu hiệu gì bất ổn. IC quyết định giữ nguyên strategy.
Day 0
Sáng 23/6 (giờ Úc) portfolio của tôi đã có lời đáng kể. SurveyMonkey, một trong những survey ít ỏi dự báo đúng cuộc bầu cử Nghị viện Anh năm ngoái, có kết quả cuối cùng: Remain sẽ thắng. Xác suất Brexit trên thị trường cá cược chỉ còn trên 20%. Phân tích số liệu swaps (DCTT), options (CME) đều cho thấy market không tin khả năng có Brexit. Đồng GBP vượt qua 1.48, có lúc lên đến 1.50, giá vàng lao dốc, 10y Bund yield dương trở lại. Vix tăng hai ngày trước đó nhưng đã chựng lại, G3 Libor vẫn ổn định.
Team của tôi tính xong VaR và làm một số scenario analysis, worse case xác định GBP sẽ giảm 15%, FTSE mất 10% nếu Leave bất ngờ thắng. Họp IC có 2 ý kiến: (i) take profit vì khả năng upside không còn nhiều mà rủi ro Brexit vẫn có, (ii) stay on vì cả VaR và worse case cũng không bị thiệt hại nhiều, nếu Leave thắng khả năng GBP vượt 1.55 trong tầm tay. Phương án (ii) được chọn vì expected return (tính với xác suất 85% Remain thắng) vẫn dương nhưng IC yêu cầu tăng hedge (chủ yếu short Nikkei, Euro Stoxx và long JPY, CHF, short EUR).
Phân tích biểu đồ và thời điểm công bố kết quả của 382 điểm bỏ phiếu, một kế hoạch emergency exit được đưa ra cân bằng giữa tỷ lệ Brexit và P&L của portfolio. Khi 75% kết quả được công bố cho thấy Brexit nhiều khả năng sẽ thắng và P&L còn trên một ngưỡng nhất định thì sẽ unwind các positions, ưu tiên cho GPB và FTSE trước nhưng phải đảm bảo net leverage không quá lớn.
7pm Chairman từ London gọi điện thông báo chuẩn bị đi bầu cử. Tình hình thời tiết không thuận lợi vì mưa lụt một số nơi. Tuy nhiên không khí trong giới finance ở London rất lạc quan về khả năng Remain thắng, tình hình turnout có vẻ tốt. Về nhà mở FB ra thấy Vũ Thành Tự Anh report từ Oxford các điểm bầu cử rất vắng, nhưng tự nhủ chắc đám sinh viên và giáo sư Oxford lười nên bỏ phiếu qua mail hết rồi. Yên tâm đi ngủ.
Day 1
Sáng thứ Sáu 24/6 đến office sớm hơn thường lệ (cho ông con trai nghỉ học hôm nay để khỏi phải chở đến trường :-) ), nhưng đã thấy một cậu trader đến rồi đang ngồi xem Bloomberg TV. Thực ra không cần đến sớm vì đến tận 9:30am (giờ Úc) mới có kết quả của local đầu tiên, nhưng cuối cùng cả office ai cũng đến sớm hết. Kết quả poll cuối cùng của YouGov trong ngày 23/6 (giờ Anh) cho biết Remain sẽ thắng 52/48, tiếc rằng đây không phải exit poll. Nigel Farage, lãnh tụ UKIP và phe Leave, gần như đã chấp nhận thua cuộc vào phút cuối cùng trước giờ kiểm phiếu khi tuyên bố: "It looks like the Remain will edge it". Tất cả các monitor bật news feed của Bloomberg, BBC, WJS... Dự kiến kết quả của local đầu tiên sẽ từ Sunderland vào khoảng 9:30am.
9:10: Bloomberg cho biết Newcastle đã kiểm phiếu xong nhưng kết quả too close to call. Vài giây sau đó BBC đưa tin Newcastle vote Remain, margin rất thấp. Kết quả cuối cùng margin chỉ là 51/49, thấp hơn nhiều so với dự báo 64% sẽ vote Remain.
9:25: Kết quả Sunderland công bố Leave thắng 61/39, vượt xa dự báo 55/45. Một cú shock lớn trên thị trường currency, đồng GBP lập tức rớt từ 1.49 xuống 1.44 chỉ trong vài giây. Điều mà thị trường và rất nhiều người (trong đó có chúng tôi) lo ngại là turnout demography có thể bất lợi cho phe Remain có vẻ đang trở thành hiện thực ở Newcastle và Sunderland, hai local đáng kể đầu tiên. Có vẻ như phe Leave đã có turnout lớn hơn rất nhiều dự kiến nên cán cân lệch hẳn về phía họ. Vì là referendum nên kết quả theo nguyên tắc one-person-one-vote, cho nên turnout rất quan trọng. Trước ngày bầu cử đã có ý kiến lo ngại ngày thứ Năm là ngày làm việc nên turnout ở London và trong giới trẻ sẽ bị ảnh hưởng. Không ai quan tâm đến ý kiến này cho đến đúng phút giây này, hoá ra quan sát của Tự Anh chính xác.
9:45: Khoảng 10 local đã có kết quả, phe Remain vẫn hơn vài trăm phiếu nhưng tình hình có vẻ tiếp tục tồi tệ, tỷ lệ Leave của các khu vực Leave thắng đều lớn hơn dự kiến. Vài phút sau có tin City of London Remain thắng nhưng turnout chỉ hơn 73%, kết quả 60/40 kém xa dự kiến 75/25. Các local phụ cân London cũng có turnout không tốt. Quay qua nhìn biểu đồ của BBC thì phe Leave đã vượt tổng số vote của phe Remain. Từ giờ phút này trở đi phe Remain không bao giờ đuổi kịp nữa. Một trader thông báo tình hình liquidity châu Á rất tệ, chỉ trừ JPY-cross, hầu hết các đồng tiền khác không có liquidity.
10:15: Điểm local quan trọng tiếp theo là Swindon, dự kiến Leave thắng 55/45. Đây là local mà một số analyst cho rằng có thể phe Remain sẽ lật ngược thế cờ hoặc chí ít cũng thu hẹp khoảng cách. Kết quả không có gì bất ngờ, tỷ lệ Leave thắng không khác gì dự kiến, turnout 76%. Trong khi đó một loạt local nhỏ liên tiếp có surprise khi phe Leave thắng áp đảo vượt quá mong đợi. GBP leo lên 1.45 được một lát bắt đầu rớt trở lại, dễ dàng vượt qua 1.44. Lúc này mới quay qua nhìn các stockmarket châu Á, hồi sáng còn thấy Nikkei xanh bây giờ đã đỏ hết. Điển an ủi lớn nhất là các hedge đều move đúng như dự định.
10:30: Kết quả một số local của Scotland và Northern Ireland không có gì surprise, Remain thắng nhưng quá nhỏ để thay đổi cán cân. Biểu đồ trên BBC cho thấy phe Leave tiếp tục gia tăng khoảng cách hơn 20K vote. Đến khi 38 local thông báo kết quả thì Leave đã có hơn 100K khoảng cách. Ngạc nhiên là thị trường châu Á và futures markets dù đỏ nhưng không rớt thêm nữa. Một trader thông báo các broker/dealer cho biết họ đợi ngưỡng 50% report sẽ quyết định. Kế hoạch của tôi là ngưỡng 75%, như vậy sẽ đi sau thị trường khoảng 30-45 phút, băt đầu lo.
11:30: Phe Leave vượt ngưỡng 1 triệu, dự kiến bên nào đạt 16.5 triệu sẽ thắng. Còn khá xa nhưng Bloomberg cho biết đã có người dự báo khả năng Leave thắng là 50.2%, trong khi đó betting odd cũng bắt đầu favor Leave. GBP trượt xuống dưới 1.40, EUR dưới 1.12, AUD dưới 0.75, trong khi đó JPY vượt 103, CHF vượt 0.97. Kết quả Midland và Northern England không có gì bất ngờ Leave tiếp tục thắng. BI cho biết Lindsay Lohan đang tweet liên tục ủng hộ Remain. Lindsay Lohan? Vào giờ này?
12:00pm: Phe Leave nới rộng khoảng cách ra 200K, một bình luận viên nói có vẻ như đây sẽ chỉ còn là cuộc chiến giữa England vs London (+Scottland). Cuối cùng cũng nghe tin Lambeth và Wandsworth, hai local gần London, Remain thắng áp đảo với 79/21 cao hơn tỷ lệ dự kiến, nhưng turnout vẫn không vượt 75%. Tỷ lệ turnout 71% của Scotland cũng thấp hơn dự kiến làm chiến thắng của phe Remain ở đây bớt sức nặng. Nên nhớ trong referendum này turnout cực kỳ quan trọng chứ không chỉ tỷ lệ thắng.
12:30: Ngưỡng 50% local report sắp đạt, phe Leave đã hơn gần 500K, có lẽ Remain cần phép mầu mới lật ngược được thế cờ. Đúng như các broker thông báo, liquidity bắt đầu tăng vọt và mọi asset đều rớt mạnh trừ JPY và CHF (tất nhiên yield của JGB, Bund và cả Gilt giảm liên tục, nhưng tôi đã stay out of FI nên chỉ đứng nhìn thị trường này). Team của tôi tính correlation cho thấy các hedges vẫn rất tốt, thậm chí một số correlation còn cao hơn dự kiến (hedge tốt hơn). GBP giảm 7%, futures FTSE giảm 5% vẫn chưa đến một nửa worst case scenario của tôi.
1:00: Khoảng cách vẫn trên dưới 500K, phe Leave đã vượt 10 triệu vote. Theo đúng kế hoạch tôi sẽ phải chuẩn bị unwind vì khả năng Leave thắng đã quá gần và ngưỡng 75% report sắp đến. Tuy nhiên panic sell ở thị trường châu Á giúp cho 2 hedging positions của tôi (short JPY & Nikkei) vượt quá expectation, nên dù thị trường bắt đầu hoảng loạn strategy của tôi vẫn tiếp tục up so với previous day close. Tôi quyết định delay thêm một thời gian vì đằng nào Tokyo cũng đang nghỉ trưa.
1:30: Đã có 80% report và portfolio của tôi vẫn up, GBP đã tụt xuống 1.34, FTSE mất 8%. Thi trường châu Á đỏ rực, JPY xuống sát 100 nhưng các đồng tiền khác rớt thảm hại. Bloomberg cho biết ngân hàng trung ương Hàn quốc, Philippines, Malaysia tuyên bố sẽ can thiệp vào thị trường FX. Trong khi đó RBA và PBoC vẫn im hơi lặng tiếng, cũng dễ hiểu vì cả Úc và TQ đều muốn đồng tiền mình yếu đi. Có tin BoJ/MoF họp khẩn cấp và Kuroda sẽ có press conference. Mấy ngày trước báo chí đã đưa tin các CB lớn (Fed, ECB, BoE, BoJ, SNB) đã lên kế hoạch can thiệp đồng thời như đã làm sau vụ động đất ở Nhật năm 2011. BoJ lo ngại đồng JPY lên giá quá mạnh nhưng chưa thấy Mark Carney lên tiếng gì khi GBP rớt thê thảm. Có lẽ BoE không lo ngại bankrun, mà nếu có cũng phải vài tiếng nữa khi London open.
2:00: Kuroda tuyên bố sẽ bơm liquidity cho market và activate swap lines nhưng không đả động gì đến intervention. Tại sao BoJ chưa can thiệp, vì thấy chưa cần thiết hay chưa thoả thuận coordination được với các CB khác? Nhưng thực ra đây là một điều may mắn cho tôi vì nếu BoJ can thiệp JPY có thể đổi chiều và các hedge của tôi sẽ không perform tốt nữa. Như vậy nếu BoJ đang đàm phán với ECB và Fed thì tôi phải unwind ngay lập tức. Nhưng đúng lúc này tôi phát hiện ra mình đã mắc một sai lầm chết người. Tôi đã short Euro Stoxx futures để hedge FTSE, nhưng Eurex đến tận 4pm (giờ Úc) mới open. Hôm qua tôi khi tính ngưỡng 75% tôi không để ý điều này và cứ nghĩ nếu Leave thắng sẽ unwind ngay lập tức mà quên là phải đợi Eurex mở cửa.
Đổ thêm dầu vào lửa, một trader thông báo CME vừa activate circuit breaker với e-Mini là một hedging short khác của tôi, dự kiến phải đến tối (giờ Úc) mới có thể trade lại được. Quay qua FX, GBP tiếp tục lao dốc khi BBC, Sky đồng loạt kết luận Leave đã thắng trong khi JPY có vẻ đã chựng lại sau tuyên bố của Kuroda, CHF và EUR cũng không chạy theo GBP nữa. Correlation breakdown! Không thể chậm chễ được nữa tôi yêu cầu một trader đóng ngay GBP-JPY và một nửa equity portfolio. Vì chưa thể trade e-Mini và Euro Stoxx tôi phải để lại một phần FTSE để giữ net leverage không đổi. Vài phút sau các trade được hoàn thành, tất cả gain từ buổi sáng đã bị mất sạch chỉ trong chưa đầy 10 phút.
3:30: Leave đã chính thức thắng, BBC news feed bây giờ chỉ còn những phát biểu đổ lỗi của các chính trị gia. Một số IB/broker bắt đầu phân tích ảnh hưởng hậu Brexit, không hiểu các analyst ở đó có viết sẵn không mà ra bài nhanh thế. Một số dự báo Euro Stoxx mở cửa sẽ rớt 15-19%, có lợi cho tôi vì FTSE mới chỉ rớt 10%. Đáng tiếc là FX calm down trở lại, GBP ngóc đầu dậy quãng 1.36, JPY cũng vượt 102. Cũng may dù tôi đã sell GPB đúng đáy nhưng JPY và AUD hedge khá tốt. Bây giờ chỉ còn chờ xử ý nốt số equity còn lại.
4:00: Eurex mở cửa, các cash market châu Âu cũng mở cửa. Ngạc nhiên là cash FTSE 100 chỉ rớt hơn 5% at open, nhưng hoá ra gần nửa số stock trong đó bị suspend. Lúc này CME cho phép trade e-Mini trở lại nhưng không reset ngưỡng circuit breaker, nghĩa là chỉ cần một sụt giảm nhỏ là exchange này sẽ lại ngừng giao dịch e-Mini. Tôi yêu cầu trader đóng nốt equity position một phần để tuân theo kế hoạch exit từ ngày hôm qua, một phần vì giá sàn của e-Mini sẽ không còn đảm bảo hedging strategy được nữa.
4:30: Mọi thứ đã xong, Leave thắng 52/48 với hơn 16.8 triệu vote, turnout 72%, không tệ nếu tính chung nhưng turnout demography đã giết phe Remain: những nơi vote Leave có turnout vượt quá dự kiến trong khi London (và Scotland) không đạt kế hoạch 75%. Báo chí lúc này chỉ còn bàn tán về số phận PM David Cameron và khi nào Anh sẽ activate Article 50. Tweet của một phóng viên cho biết Cameron sẽ resign còn Boris Johnson tuyên bố chưa nên activate A50. Rộ lên tin Scotland và Northern Ireland sẽ tổ chức referendum tách khỏi GB.
5:30: David Cameron tuyên bố resign sau khi thua canh bạc lớn nhất đời mình. Ông đã thua và kéo theo nước Anh vào một tương lai đầy bất định. Tôi cho rằng năm ngoái khi đối mặt với một UKIP đang lên Cameron đã sử dụng lời hứa sẽ tổ chức Brexit referendum để lấy phiếu, chắc mẩm rằng không bao giờ phe Leave có thể thắng. Một mũi tên nhắm 3 đích: vừa thắng cử, vừa giữ lại EU membership, vừa triệt hạ UKIP. Cameron bắn trúng mục tiêu thứ nhất, thắng vang dội tháng 5/2015, nhưng trượt mục tiêu thứ 2. Chính mục tiêu thứ 3, điều mà Cameron không còn khả năng bắn nữa vì đã resign, mới là điều làm tôi lo ngại hơn cả việc Anh rời khỏi EU. UKIP mà nói rộng hơn là phong trào nationalism cực hữu ở Anh và khắp châu Âu sẽ trỗi dậy. Không chỉ suy thoái/bất ổn kinh tế mà các rủi ro chính trị/địa chính trị trên toàn thế giới sẽ làm người dân mọi nơi khốn khó hơn nhiều. Bài học là: turnout rất quan trọng các bạn ạ.
6:00: Viết nốt mấy cái report/analysis ngắn cho IC. Dù có một vài sai lầm và chậm trễ, portfolio của tôi nói chung không tệ so với 2 tuần trước. Thực ra tôi đã đặt cửa sai nhưng hedging tốt và đặc biệt là rất may mắn trong tuần cuối cùng trước bầu cử. Theo văn hoá VN phải thắp nhang vái lạy tạ ơn Jo Cox.
7:00: Đóng cửa office về nhà. Trên xe bất ngờ nghe Louis Armstrong hát What a wonderful world. Đúng vậy, 48 giờ qua chỉ là một hạt cát trong wonderful world này thôi, cứ phải "bình tĩnh mà sống".
Saturday, June 25, 2016
Asset risk weighting
Bài này đã được đăng trên TBKTSG gần đây:
Ngân hàng trung ương truyền thống có hai nhiệm vụ chính: điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và đảm bảo an toàn/ổn định cho hệ thống tài chính. Mặc dù sách giáo khoa kinh tế thường nói chính sách tiền tệ được thực hiện thông qua việc thay đổi (tốc độ) cung tiền cho nền kinh tế, trên thực tế hầu hết các ngân hàng trung ương đều sử dụng công cụ lãi suất (và tỷ giá) bằng cách bơm/rút thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng (qua OMO) hay các mệnh lệnh hành chính ấn định trần/sàn của lãi suất/tỷ giá hoặc tăng trưởng tín dụng. Nới lỏng định lượng (QE) là một công cụ mới mà Nhật bản sử dụng hơn chục năm nay và nhiều nước phát triển đã học tập sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007/2009 vừa rồi.
Đối với nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, các ngân hàng trung ương có hai công cụ truyền thống. Thứ nhất là thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng cho các tổ chức tài chính. Trước đây chủ yếu thông qua cho vay tái chiết khấu (discount window/refinancing loans), sau cuộc khủng hoảng vừa rồi một số công cụ mới xuất hiện xoay quanh nguyên tắc hoán đổi một loại tài sản có nào đó của ngân hàng lấy thanh khoản (asset swaps). Công cụ thứ hai quan trọng hơn và càng ngày càng được mở rộng là hoạt động giám sát tính cẩn trọng (prudential supervision) của hệ thống ngân hàng. Đã có nhiều nỗ lực quốc tế nhằm thống nhất và chuẩn hoá các qui định giám sát này, cụ thể là các nguyên tắc an toàn vốn do Basel Committee đưa ra và được các tổ chức quốc tế như BIS, IMF, OECD khuyến cáo/yêu cầu các quốc gia áp dụng. Nhiều thước đo an toàn khác như tỷ lệ dự trữ tối thiểu (RRR), tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, tỷ lệ cổ phiếu sở hữu chéo... cũng nằm trong nhóm công cụ thứ hai này.
Hiện tại NHNN đang hướng tới việc áp dụng chuẩn Basel II cho hệ thống ngân hàng VN mà một trong những nguyên tắc chính là giám sát tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) dựa trên mức độ rủi ro của các loại tài sản có của các ngân hàng. Quyết định sửa đổi thông tư 36 vừa rồi tăng hệ số rủi ro cho các khoản cho vay kinh doanh bất động sản từ 150% lên 200% thoạt nhìn cũng liên quan đến công cụ thứ hai của NHNN trong khuôn khổ Basel II, nhưng về bản chất không phải vậy. Thực chất tăng hệ số rủi ro của bất kỳ một tài sản có nào lên trên 100% là không cần thiết cho mục tiêu an toàn mà là một hình thức can thiệp vào cấu thành bản cân đối tài sản của các ngân hàng, dù gián tiếp có ảnh hưởng đến mức độ an toàn hệ thống nhưng hiện tại được liệt kê vào một nhóm công cụ thứ ba mà tôi sẽ bàn thêm bên dưới.
Khuyến cáo của BIS cho các nước sử dụng hệ số rủi ro cho vay nhà ở khi tính CAR khoảng 35%, thậm chí một số phân tích gần đây còn gợi ý có thể giảm xuống 25%. Ngay cả ở Úc, nơi hầu hết các nhà kinh tế cho rằng giá bất động sản bị bong bóng nhiều năm nay và có khả năng sụp đổ, cơ quan giám sát tài chính (APRA) cũng chỉ khuyến cáo các ngân hàng sử dụng hệ số 35% và không bắt buộc. Đối với bất động sản thương mại hoặc các khoản cho vay liên quan đến các dự án bất động sản có rất ít hoặc không có thế chấp, hệ số rủi ro có thể từ 75% đến 100%. Sở dĩ hệ số rủi ro tối đa là 100% vì thực ra con số này chỉ là tương đối, số vốn điều lệ cần thiết để làm bộ đệm (cushion) cho rủi ro không thu được hồi nợ còn phải tính đến CAR. Nếu ngân hàng trung ương muốn tăng mức độ an toàn của toàn hệ thống, nâng CAR lên đơn giản và hiệu quả hơn nhiều so với việc so đo hệ số rủi ro của hàng trăm/hàng nghìn loại tài sản có trên bản cân đối tài chính.
Trở lại vấn đề sửa đổi thông tư 36, ngay cả hệ số rủi ro 150% trước đây cũng đã vượt quá khuôn khổ chống rủi ro của Basel. Không một khoản cho vay nào dù rủi ro đến đâu cũng có thể mất hơn 100% tổng số tiền cho vay. Có thể hiểu phần vượt trội trên 100% là một loại thuế ngầm đánh lên tín dụng bất động sản nhằm giảm nhiệt tốc độ tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực này mà mấy năm nay luôn cao hơn tốc độ tăng trung bình của tổng tín dụng. Việc điều tiết chính sách giám sát để thay đổi cơ cấu tài sản của bảng cân đối tài sản đã được giới kinh tế tranh luận vài chục năm nay và trở nên nóng lại sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi. Trong Basel III một phần ý tưởng này đã được đưa vào một cách không chính thức dưới tên gọi giám sát cẩn trọng vĩ mô (macro prudential supervision), có thể coi là một nhóm công cụ thứ ba của ngân hàng trung ương trong nhiệm vụ bảo đảm an toàn hệ thống. Các hình thức giám sát cẩn trọng truyền thống (CAR, RRR,...) được coi là micro prudential.
Ở tầm mức vĩ mô ngân hàng trung ương giám sát (và điều chỉnh) những chỉ số vĩ mô của toàn bộ hệ thống, ví dụ tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ cho vay bất động sản, tốc độ tăng giá bất động sản/chứng khoán... Tuy nhiên quan điểm này không được sự đồng thuận của giới kinh tế học, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng ngân hàng trung ương chỉ nên tập trung vào micro prodential supervision. Bởi vậy Basel III đưa ra một điểm mới trong giám sát cẩn trọng vĩ mô là các ngân hàng trung ương khoanh vùng một số tổ chức tài chính lớn mà nếu chỉ một trong số đó đổ vỡ có thể gây ra phản ứng dây chuyền. Những tổ chức tài chính này được gọi là tổ chức có tính quan trọng hệ thống (systemically important institution - SII) và phải chịu thêm một số chế tài nhất định. Ngoài việc phải duy trì những chỉ số an toàn như CAR cao hơn các tổ chức tài chính khác, SII còn phải thực hiện thêm hai biện pháp chống rủi ro nữa là kiểm tra sức chịu đựng (stress test) và có kế hoạch giải thể dự phòng (living will) nếu lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy có thể thấy xu hướng giám sát hệ thống tài chính của các ngân hàng trung ương tiên tiến đang hướng đến một số biện pháp vĩ mô nhưng tập trung vào một số SII chứ không dàn trải. Cụ thể trong trường hợp cho vay bất động sản, dư nợ của khu vực này có thể có rủi ro cao nhưng chắc chắn không đồng đều với tất cả các ngân hàng. Hiện tại dư nợ liên quan đến bất động sản của VN chỉ xấp xỉ trên 10% tổng dư nợ toàn bộ hệ thống, thấp hơn nhiều so với khoảng 60% của Úc hay 30% của Mỹ. Cho nên nâng hệ số rủi ro gấp đôi trần 100% nhằm giảm nhiệt của toàn bộ hệ thống chưa chắc đã là tối ưu. Trong khi một số ngân hàng có thể có nợ xấu bất động sản quá cao nên cần kìm hãm, nhiều ngân hàng khác vẫn còn dư địa cho vay một cách an toàn nên sẽ bị ảnh hưởng xấu bởi một chính sách cứng nhắc. Nền kinh tế và người dân có thể sẽ bị thiệt hại vì thị trường bất động sản không phát triển đúng tiềm năng chỉ vì NHNN không phân biệt được tín dụng tốt với tín dụng xấu.
Tóm lại "đánh thuế ngầm" lên tín dụng bất động sản không nhất thiết là một chính sách sai nhưng có thể NHNN chưa tính toán kỹ. Thay vì coi tín dụng bất động sản là một rủi ro lớn nên phải áp hệ số rủi ro lên đến 200%, NHNN cần xác định đâu là những điểm yếu trong toàn hệ thống và có biện pháp xử lý chúng. Ví dụ NHNN có thể thực hiện stress test cho một nhóm các ngân hàng có dư nợ tín dụng bất động sản cao nhằm tìm ra CAR phù hợp. Cần đặt macro prudential policy vào đúng vị trí của nó, tránh nhầm lẫn với các chính sách khác, nhất là chính sách tiền tệ.
Panama papers
Dưới đây là bài trả lời phỏng vấn của tôi với báo Một Thế giới về vụ Hồ sơ Panama:
Q: Thưa ông, hình thức offshore company thực chất là gì? Hình thức này đem lại lợi ích gì mà thu hút được lượng khách hàng lớn đến vậy, có cả những cái tên quyền lực nhất thế giới?
A: Offshore company như tên gọi của nó nghĩa là một công ty được thành lập bên ngoài lãnh thổ của chủ sở hữu. Ví dụ khi HAGL sang Lào kinh doanh công ty này có thể mở một offshore company là một công ty đang ký theo luật của nước sở tại để giao dịch và quản lý các hoạt động kinh doanh ở đây. Trong vụ PP offshore company phải hiểu là shell company, nghĩa là một công ty (ở nước ngoài) được lập ra để đại diện cho quyền lợi và/hoặc hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp/cá nhân ở một quốc gia khác. Một số lý do chính doanh nghiệp/cá nhân mở shell company:
- Tránh thuế
- Trốn thuế
- Rửa tiền
- Che giấu tài sản với người thân, giới báo chí, chính quyền
- Lách cấm vận
- Tránh các qui định/quản lý/pháp lý phức tạp/đắt đỏ ở nơi họ sinh sống/hoạt động
- Tránh rủi ro mất/bị kiện tụng/bị tịch thu tài sản ở nơi họ sinh sống/hoạt động
Ngoại trừ trốn thuế, rửa tiền, lách cấm vận, các lý do khác nhìn chung hợp pháp và rất có lợi cho những doanh nghiệp/cá nhân sinh sống/hoạt động ở những nước có thuế suất cao và nhiều qui định/luật pháp khó khăn liên quan đến tài sản. Ví dụ luật thừa kế của Pháp ràng buộc người để lại tài sản rất nhiều qui định mà có thể trái với nguyện vọng của ông/bà ta. Do đó một cá nhân giàu có ở nước này có thể chuyển tài sản ra một offshore/shell company để có thể tự do di chúc lại cho bất kỳ ai mà ít khả năng bị kiện tụng. Một ví dụ khác là một hedge fund có trụ sở ở Mỹ và mở quĩ theo luật Mỹ họ sẽ phải kiểm tra xem nhà đầu tư có thuộc diện được phép đầu tư vào hedge fund hay không (accredited investor), nếu không kiểm tra kỹ họ sẽ bị liên đới khi cơ quan pháp luật phát hiện ra. Ngoài ra nhiều nước qui định quĩ phải kiểm tra nguồn tiền đầu tư có sạch không, một việc rất khó và rất tốn kém. Do đó mở quĩ dưới hình thức offshore company sẽ tránh được các qui định phức tạp này, nhà đầu tư sẽ phải tự chịu tránh nhiệm với chính quyền nước mình còn người quản lý quĩ không bị liên đới.
Tuy nhiên phải thừa nhận lý do tránh/trốn thuế và che giấu tài sản là rất phổ biến, nhất là với offshore/shell company cho các cá nhân giầu có. Đây là một vùng xám, nhiều khả năng động cơ của họ không trong sáng nhưng khó đánh giá mức độ đúng sai theo pháp luật (trừ hành vi trốn thuế). Ví dụ một người di chúc lại một khối tài sản lớn cho con, nếu ở Mỹ người con có thể sẽ bị đánh thuế lên đến hàng chục phần trăm số tài sản thừa hưởng đó. Khi tài sản để ở một offshore company và việc chuyển giao tài sản thực hiện dưới hình thức bán công ty (như vụ thủ tướng Iceland bán một offshore company của mình cho vợ với giá $1) thì đánh giá hành vi này có phạm pháp hay không rất khó, chưa kể rất khó phát hiện ra.
Một ví dụ khác là một triệu phú mua một chiếc du thuyền đắt tiền sử dụng. Nếu ông/bà ta đem về nước đứng tên có thể sẽ phải đóng thuế tiêu thụ đặc biệt rất cao. Do đó ông/bà ta có thể mở một offshore company đứng ra mua du thuyền đó rồi cho chính mình thuê/mượn lại. Khó có thể đánh giá số tiền thuế giới nhà giầu tránh/trốn thông qua offshore company là bao nhiêu, nhưng chắc chắn phải rất lớn để họ (hoặc những người quản lý tài sản cho họ) sử dụng hình thức offshore company. Nhìn chung dân thường ở các nước "dị ứng" với dạng shell/offshore company như vậy vì nó có lợi cho giới nhà giầu vốn dĩ đã có quá nhiều đặc lợi trong xã hội.
Q: Theo danh sách mới nhất, Việt Nam có 189 người có tên trong Hồ sơ Panama do Hiệp hội Các nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) công bố, ông bình luận gì về điều này? Theo ông, họ có vi phạm pháp luật hay không? Hành động mở offshore/shell company ở nước ngoài để quản lý tài sản có bị cấm không và tình trạng này trên thế giới diễn ra với mức độ như thế nào?
A: Trước hết cần làm rõ lại con số 189 mà nhiều báo chí VN cho rằng là số người VN có liên quan đến offshore company bị tiết lộ qua PP. Điều này không hoàn toàn chính xác, thực ra đây là số người và pháp nhân có địa chỉ thường trú tại VN ở thời điểm họ mở offshore company. Bỏ qua một số pháp nhân (vd SGL Capital hay Fired Earth Ltd), một số lớn cá nhân trong danh sách này có lẽ là các doanh nhân nước ngoài (không phải công dân VN) đã/đang làm ăn ở VN. Việc họ mở công ty ở một quốc gia nào đó rồi đem tiền vào VN đầu tư hoàn toàn không liên quan gì đến VN về khía cạnh họ có vi phạm luật pháp VN hay không. Ngược lại trong số những công dân VN có thể có một số người đang làm việc ở nước ngoài (expat) và việc họ có liên quan đến một offshore company nào đó cũng không thuộc thẩm quyền luật pháp của VN.
Một chi tiết nữa nhiều báo chí VN nhầm lẫn là con số 189 trong database của ICIJ được tổng hợp từ hai vụ leaks, vụ PP vừa rồi và một vụ năm 2013 được ICIJ gọi là Offshore Leaks (tôi đã có lần đề cập đến). Nếu chỉ xét danh sách từ PP thì VN có 99 cái tên được liệt kê chứ không phải 189. Nhưng tất nhiên con số này sẽ tăng lên vì ICIJ sẽ tiếp tục cập nhật database khi họ có thêm các nguồn tin khác (leaks) trong tương lai. Cũng cần lưu ý là ICIJ chỉ cung cấp một số thông tin cơ bản trên database mà ai cũng có thể download về nghiên cứu, nhiều thông tin nhạy cảm khác (vd số tài khoản ngân hàng, nội dung email trao đổi...) họ không công bố.
Quay lai danh sách 189 cái tên liên quan đến VN có trong database hiện tại của ICIJ. Thực ra nếu chỉ xét về số lượng thì VN có ít hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực, vd TQ có 33290, Thailand 1413, Indonesia 3544, Philippines 883, thậm chí Lào cũng có 56 và Cambodia 30 cái tên. Tuy nhiên như đã nói bên trên hầu hết các nước không cấm việc mở offshore/shell company và VN cũng không có luật nào cấm, bởi vậy không thể nói các công dân VN có tên trong danh sách trên là phạm pháp. Điều cần quan tâm là những người mở công ty kiểu này có sử dụng chúng cho những hoạt động phạm pháp như trốn thuế hay rửa tiền hay không, tương tự như sở hữu xe hơi không phạm pháp nhưng chủ sở hữu có thể dùng nó để buôn lậu là một hoạt động phạm pháp. Bởi vậy để đánh giá mức độ phạm pháp phải điều tra cụ thể hoạt động của những công ty offshore/shell và những người liên quan chứ không thể nhận định chung chung.
Việc đầu tiên là rà soát xem trong số 189 cá nhân/pháp nhân này có ai che giấu việc sở hữu hoặc có liên quan đến những công ty đó hay không khi bị buộc phải công khai điều này, ví dụ khi phải kê khai tài sản/chức vụ trong sơ yếu lý lịch hay phải công bố các doanh nghiệp con trong báo cáo tài chính. Thủ tướng Iceland phải từ chức vì khi là nghị sĩ ông ta đã không công khai mình sở hữu một offshore company trong khi luật pháp nước này buộc các nghị sĩ phải làm điều này. Ngược lại thủ tướng Úc không bị cáo buộc phạm pháp dù có tên trong một công ty offshore khác vì ở thời điểm đó ông ta chưa tham gia quốc hội mà là giám đốc của một quĩ đầu tư. Tôi biết nhiều quĩ đầu tư lớn ở VN huy động vốn từ bên ngoài thông qua các offshore company, đa số họ công khai điều này trong các bản cáo bạch hay trên website nên họ không làm gì phạm pháp.
Ngoài ra cần xác định các offshore company mà 189 cá nhân/pháp nhân nói trên có liên quan rồi loại bỏ những company đã không còn "Active" (có thể điều tra điều này trực tiếp trên website của ICIJ). Một điểm rất quan trọng cần lưu ý là quan hệ giữa 189 cá nhân/pháp nhân trong danh sách ICIJ với offshore company mà họ có liên quan. Thông thường nếu một cá nhân chỉ là thành viên hội đồng quản trị (director) của một offshore company, ví dụ trường hợp của bà Đàm Bích Thủy chỉ là một trong số 10 directors của ANZ/V-Track International Leasing, thì đây là một mối liên hệ yếu và ít khả năng cá nhân đó có những hoạt động phạm pháp như trốn thuế hay rửa tiền. Ngược lại nếu một cá nhân là cổ đông (shareholder) hay người được hưởng lợi (beneficiary), và trong đa số trường hợp đồng thời là director, thì đó là mối liên hệ mạnh cần phải điều tra sâu thêm. Ít nhất cơ quan thuế có thể yêu cầu các cá nhân/pháp nhân đó báo cáo những quyền lợi nhận được từ offshore company mà họ có liên quan (tất nhiên với điều kiện người đó nằm trong phạm vi điều phối pháp luật (jurisdiction) của VN).
Tóm lại quả bóng đang nằm trong chân cơ quan thuế VN. Một số cơ quan thuế của các nước (Úc, Mỹ, Anh...) đã xúc tiến điều tra. Ngoài việc điều tra trực tiếp các cá nhân/pháp nhân có tên trong database này, các quốc gia có hiệp ước hỗ trợ tư pháp với Panama và các "thiên đường thuế" nơi các offshore company đăng ký có thể yêu cầu cơ quan tư pháp của những nước này hỗ trợ. Một nguồn thông tin rất quan trọng nữa là phần "chìm" của PP và Offshore Leaks mà ICIJ chưa công bố. Chính phủ và các nhà báo VN có thể tiếp xúc với tổ chức này xin được hợp tác/trợ giúp thông tin. Sau khi đã khoanh vùng được những nghi ngờ về trốn thuế hay rửa tiền, bước cuối cùng và khó khăn nhất là yêu cầu các ngân hàng quản lý tài khoản cho các công ty offshore cung cấp thông tin transactions. Tất nhiên ở thời điểm hiện tại chưa thể khẳng định được điều gì, nhưng nếu không điều tra VN sẽ không bao giờ biết.
Q Thưa ông, nếu Mossack Fonseca bị bắt, cụ thể là nếu trong trường hợp xấu nhất, Hoa Kỳ đưa đưa công ty này ra trước pháp luật, công ty này sẽ sụp đổ. Điều đó sẽ gây ảnh hưởng thế nào đến những khách hàng của họ? Theo ông, những cái tên Việt Nam có trong danh sách đó sẽ ảnh hưởng như thế nào?
A: Cho đến giờ này vẫn chưa thấy Mỹ hay một quốc gia nào khác tìm cách qui trách nhiệm (hình sự) cho MF vì hành vi trợ giúp trốn thuế, rửa tiền hay lách cấm vận. Có thể vì những thông tin trong PP được ICIJ công bố chưa đủ vững để có thể khởi tố lãnh đạo hoặc nhân viên MF. Tuy nhiên vẫn còn khá sớm để đánh giá khả năng này vì bản thân ICIJ cũng phải mất nhiều thời gian nữa để đọc và phân tích kỹ hơn 11.5 triệu tài liệu. Các cơ quan công tố các quốc gia liên quan dù đã yêu cầu ICIJ cung cấp thêm thông tin cũng cần thời gian để tìm đủ chứng cứ mới có thể khởi tố. Trong trường hơp xấu nhất MF bị khởi tố rồi truy tố thì hậu quả đầu tiên là sẽ có thêm nhiều thông tin bí mật bị tiết lộ, không chỉ từ nội bộ MF mà cả các pháp nhân liên quan như ngân hàng, kế toán, kiểm toán.
Với những trường hợp một cá nhân/pháp nhân chỉ thuê MF làm dịch vụ thành lập offshore company (và/hoặc mở offshore account) sẽ hầu như không bị ảnh hưởng vì quan hệ giữa họ với MF nhiều khả năng đã chấm dứt. Nhưng một số lớn offshore company mở ra để che giấu tài sản và/hoặc thu nhập thì người chủ thực sự của công ty đó thường sẽ thuê MF đứng ra làm bình phong và quản lý công ty cho họ. Do đó sự đổ vỡ của MF sẽ không chỉ phơi bầy những tài sản ngầm đó mà còn gây khó khăn cho những người chủ thực sự muốn dịch chuyển tài sản/thu nhập của mình sang những nơi trú ẩn khác. Thậm chí nếu tài sản được chuyển đi các offshore company khác trước khi MF bị các cơ quan công tố khởi tố, địa điểm cất giấu mới vẫn có thể bị truy ra.
Tóm lại nếu offshore company được mở ra với mục đích dễ dàng kinh doanh thì ảnh hưởng nếu MF bị truy tố không có gì đáng kể. Ngược lại nếu đó là chỗ che giấu tiền bẩn và/hoặc để trốn thuế thì những người chủ đằng sau các offshore company đó phải cầu mong cho MF "tai qua nạn khỏi".
Q: Một số nhân vật là người Việt có tên trong danh sách đã lên tiếng khẳng định sự vô tội trước pháp luật của họ, theo ông, nếu không phạm tội trốn thuế thì hành vi này có được xem là lách thuế hay không? Cơ quan quản lý cần làm gì để khắc phục điều này?
A: Như tôi đã nói bên trên việc mở offshore company hoàn toàn có thể cho mục đích kinh doanh đàng hoàng, tôi tin nhiều người trong danh sách 189 cái tên trong database ICIJ thuộc loại này. Tuy nhiên có thể nói không ít offshore company được mở ra với mục đích che giấu tài sản và/hoặc trốn thuế/né thuế. Offshore company là một công cụ khá hữu hiệu cho những mục đích này với chi phí rẻ, thủ tục đơn giản và đặc biệt là hệ thống pháp luật của các tax haven rất thuận lợi cho mục đích này. Không chỉ VN mà ngay cả những nước có hệ thống thực thi pháp luật mạnh cũng rất đau đầu vì không dễ gì tiếp cận được thông tin của các offshore company ở các tax haven, trừ khi có những vụ leaks như PP vừa rồi hay Offshore Leaks mấy năm trước.
Rửa tiền, trốn thuế, chuyển giá rõ ràng là phạm pháp, nhưng ngay cả hành vi né thuế tuy không phạm pháp nhưng cũng bị lên án ở nhiều nước. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhân vật giầu có, quyền lực ở các nước bị chỉ trích vì mức thuế trung bình mà họ đóng trên tổng thu nhập thấp hơn nhiều mức thuế bình quân của những người lao động bình thường. Việc người giầu né thuế qua các offshore company chỉ vì họ có khả năng làm như vậy không đúng xét cả về mặt đạo đức và công bằng. Nhiều nhà kinh tế, như 300 người vừa ký tên vào một bức thư ngỏ do Thomas Piketty khởi xướng, cho rằng offshore company và tax haven là những nguyên nhân quan trọng làm gia tăng khoảng cách giầu nghèo trên thế giới. Về mặt vĩ mô với những nước nghèo như VN, cất giấu tài sản ở các tax heven còn làm giảm national saving, ảnh hưởng tới đầu tư và cán cân thương mại.
Tất nhiên nhà nước cần phải gia tăng kiểm soát để chống lại những hành vi phạm pháp (rửa tiền, trốn thuế, chuyển giá), nhưng với khoảng xám "né thuế" dựa vào offshore company cấm đoán không phải là điều nên làm. Thứ nhất cấm đoán một hành vi không phạm luật, dù nó có thể xấu về mặt đạo đức và công bằng, là một chính sách vi hiến. Thứ hai nó không hiệu quả vì rất khó enforce và giới nhà giầu sẽ chuyển sang một hình thức né thuế khác. Hầu hết những người đủ giầu để có nhu cầu mở offshore company hòng né thuế có thể dễ dàng chuyển sang định cư ở một quốc gia khác thoát khỏi luật cấm nếu nó ra đời. Thứ ba cấm đoán người Việt mở offshore company sẽ ảnh hưởng đến những hoạt động hợp pháp và có lợi cho nền kinh tế như đã nói ở trên.
Vậy giải pháp cho vấn đề né thuế là gì? Trước hết chính phủ cần cải tổ hệ thống thuế để nó minh bạch và công bằng, xem xét lại các mức thuế suất cho hợp lý chứ đừng có quan điểm tận thu. Quan trọng hơn chính phủ phải chứng minh cho người đóng thuế thấy rằng đồng tiền thuế mà họ đóng góp được chi tiêu đúng chỗ và hiệu quả. Hãy để những người có tiền hiểu đóng thuế đầy đủ giúp xây dựng một xã hội công bằng và phát triển, sẽ tạo ra nhiều cơ hội đầu tư hơn và lợi nhuận về lâu dài sẽ vượt xa số tiền thuế mà họ né được thông qua các offshore company. Một điểm nữa là nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện cho một nền báo chi tự do và độc lập vì đây là một công cụ vô cùng hữu hiệu lật tẩy những người trốn thuế, né thuế. Hãy nhớ rằng toàn bộ câu chuyện offshore company này chỉ được xã hội biết đề nhờ ICIJ, một hiệp hội nhà báo độc lập.
Wednesday, October 14, 2015
AIDS
AIDS ở đây không phải là "căn bệnh thế kỷ" mà là Almost Ideal Demand System, một hệ phương trình biểu diễn những hàm demand các loại hàng hoá khác nhau trong một nền kinh tế. Đây là một công trình của Angus Deaton, nhà kinh tế vừa được trao giải Nobel, (viết cùng John Muellbauer) công bố năm 1980. Bài báo này được đăng trên tạp chí American Economic Review, một trong những tạp chí uy tín nhất trong ngành kinh tế học, và được chính AER chọn là một trong 20 bài báo quan trọng nhất trong lịch sử 100 năm của họ. Bài viết này sẽ giới thiệu sơ lược công trình của Deaton trong tổng thể lý thuyết về demand system, về cơ bản là tóm tắt một bài literature review tôi viết năm 2003 khi đang là sinh viên (bạn có thể đọc tài liệu embedded bên dưới hoặc download pdf về đọc). Đây không phải lĩnh vực của tôi, lúc đó tôi viết bài này vì đang làm research assistant cho 2 giáo sư trong trường. Bởi vậy dù đã tìm hiểu khá kỹ nhưng bài review vẫn có thể có những sai sót, bạn nào quan tâm nên tìm đọc các bài báo gốc trong reference list.
Trước hết cần nhắc lại cung và cầu là hai khái niệm căn bản của kinh tế học có từ thời Adam Smith. Sau cuộc Cách mạng Cận biên (Marginal Revolution) vào cuối thế kỷ 19, các nhà kinh tế học bắt đầu xây dựng lý thuyết cung cầu dựa vào các mô hình toán. Cụ thể, hàm cầu là kết quả của bài toán tối ưu utility của người tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào dạng hàm utility chúng ta có thể giải bài toán này để tìm ra hàm cầu và ước lượng các tham số của nó dựa vào số liệu quan sát được. Lưu ý utility là một khái niệm trừu tượng do các nhà kinh tế đưa ra để xây dựng lý thuyết. Không ai đo lường được giá trị utility trên thực tế nên muốn kiểm chứng lý thuyết phải đi vòng qua "reduced form" của lý thuyết đó mà trong trường hợp này là demand function.
Điểm thứ hai cần nhắc lại là demand function có thể xem xét/ước lượng trong hai trường hợp: partial và general equilibrium. Ở trường hợp thứ nhất chúng ta chỉ cần xét riêng rẽ một thị trường nhất định và xác định quan hệ giữa giá (P) và số lượng (Q) của một loại hàng hoá. Hầu hết các nghiên cứu về hàm cầu theo hướng này (trong các ngành business, marketing) không đặt nặng vấn đề hàm cầu phải là hệ quả của utility maximisation. Trường hợp thứ hai hàm cầu của một loại hàng hoá (i) phụ thuộc không chỉ vào giá P(i) của loại hàng hoá đó mà còn phụ thuộc vào giá P(j) của các hàng hoá khác mà người tiêu dùng mua khi họ có một mức thu nhập I nhất định (budget constraint). Vì demand cho tất cả các loại hàng hoá phụ thuộc lẫn nhau nên các nhà kinh tế tìm cách xác định/ước lượng tất cả các hàm demand đồng thời trong một hệ phương trình, bởi vậy gọi là demand system.
Như đã đề cập bên trên, demand system là lời giải cho bài toán utility maximisation trong một general equilibrium nên nó sẽ có một số tính chất giới hạn (restriction) nhất định. Ví dụ tổng chi tiêu cho các loại hàng hoá phải bằng thu nhập (Walras law) hay nếu tất cả các loại giá và thu nhập cùng tăng với tỷ lệ như nhau thì cầu cho từng loại hàng hoá không đổi (homogenous degree of zero in all prices and income). Xây dựng một dạng hàm phù hợp với số liệu thực tế đồng thời đảm bảo các giới hạn này không hề đơn giản. Những dạng hàm sơ khai như LES, PIGL/PIGLOG, hay Rotterdam đáp ứng được phần nào nhưng có rất nhiều hạn chế. Cụ thể chúng chỉ phù hợp khi hàng hoá được phân loại thành những nhóm lớn, ví dụ nhà ở, lương thực, giải trí..., chứ khó ước lượng cho những phân loại chi tiết hơn.
Vào đầu những năm 1970s một hướng nghiên cứu demand system mới phát triển từ dạng hàm PIGLOG trước đó. Ý tưởng chính của hướng nghiên cứu này là thay vì xác định một dạng hàng utility rồi giải ra hàm demand, các nhà kinh tế đưa ra một dạng hàm demand trực tiếp rất flexible để có khả năng là lời giải của một hàm utility bất kỳ. Tất nhiên về mặt lý thuyết thì điều này không thể nhưng nếu chỉ cần gần đúng thì bất kỳ một dạng hàm nào cũng có thể triển khai thành một chuỗi Taylor. Sử dụng Taylor expansion bậc hai hai nhóm demand function được đề xuất là Translog và AIDS. Mặc dù Translog tổng quát hơn nhưng AIDS có nhiều ưu điểm vượt trội nên sau này đã phổ biến hơn và có nhiều biến thể. Một trong những ưu điểm quan trọng nhất là nó có thể giản lược thành một hệ tuyến tính (linear) rất dễ ước lượng (những năm 70-80 chưa có PC và những phần mềm econometrics mạnh như bây giờ).
Những dạng hàm flexible form như Translog và AIDS (và các extension của nó) giúp các nhà kinh tế kiểm chứng consumer theory (với utility maximisation) thông qua số liệu tiêu dùng của các hộ gia đình. Một số cải biến cho AIDS để đưa các đặc tính demography vào demand system có nhiều ứng dụng thực tế trong việc giúp hoạch định chính sách. Ví dụ ảnh hưởng của một sắc thuế hoặc một loại trợ giá vào welfare của các hộ gia đình (với các mức thu nhập khác nhau) như thế nào. Hay như hai giáo sư mà tôi làm assistant đã đánh giá tác động của sự thay đổi cấu trúc dân số TQ vào demand của các loại lương thực của nước này. Sau khi viết bài review tôi cũng có ý định sẽ lấy số liệu VHLSS của VN để thử ước lượng một demand system nhưng rồi bận với luận án và những vấn đề cuộc sống khác nên đành bỏ dở. Nhân Angus Deaton được giải Nobel chợt nhớ đến lĩnh vực này, một dạng nostalgic lại thời sinh viên. Thôi hi vọng bài giới thiệu này làm một/vài bạn sinh viên nào đó hứng thú và sẽ đi xa hơn tôi.
Saturday, August 29, 2015
NEER/REER Update
Tôi vừa update đồ thị NEER/REER cho VND đến tháng 7/2015. NEER là trade-weighted nominal exchange rate với Top-10 trading partners: CNY/USD/JPY/EUR/KRW/THB/SGD/MYR/AUD/INR. Top 10 này được xác định bằng trung bình trade share trong 5 năm gần nhất (số liệu đến tháng 3/2015), chiếm khoảng 74% tổng doanh số XNK của VN. REER được hiệu chỉnh bằng CPI theo tháng.
Cả NEER và REER lấy điểm gốc vào tháng 12/1999, giá trị trên đồ thị tăng tương đương với VND lên giá (appreciation). Như vậy trong 15 năm qua NEER mất giá khoảng 60% nhưng REER tăng gần 50%, nghĩa là hàng hóa sản xuất trong nước trung bình so với hàng của Top-10 trading partners mất gần 50% sức cạnh tranh (cả trong nước lẫn xuất khẩu) nếu chỉ tính ảnh hưởng của tỷ giá thực.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình là người có "thành tích" giữ ổn định NEER nhất trong số 3 đời thống đốc gần đây. Tuy nhiên ông cũng là người điều hành NHNN trong giai đoạn có REER tăng mạnh nhất (nếu tôi nhớ không nhầm chưa bao giờ ông Bình hay một quan chức NHNN nào đề cập đến vấn đề này). Từ giờ đến cuối năm 2015 nhiều khả năng REER sẽ tiếp tục tăng vì NHNN đã khẳng định sẽ không phá giá (danh nghĩa) VND nữa, mà CPI của VN chắc chắn cao hơn CPI của Top-10 partners liệt kê bên trên. Tôi nghĩ nhìn tốc độ REER tăng nhanh như vậy các thống đốc ngân hàng trung ương khác chắc phải mất ăn mất ngủ.
Tuesday, April 21, 2015
Tet & GDP (II)
Bài này sẽ giải thích thêm một số vấn đề về GDP nhân vụ một số thành viên chính phủ choáng/giật mình/bất ngờ vì GDP Q1 tăng 6.03%. Thực ra vụ này không liên quan lắm đến chủ đề ảnh hưởng của Tết vào GDP nhưng vì có bạn hỏi liệu con số tăng trưởng rất tốt đó có phủ nhận lập luận của tôi trong entry trước hay không nên tôi viết thành "tập 2" cho chủ đề Tết vs GDP. Bài này cũng có thể coi là "tập 2" của bài về thống kê quốc gia.
Một số khái niệm cơ bản
Trước hết cần phân biệt giá trị với tốc độ tăng GDP. Báo chí khi nói đến GDP hầu như chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng bao nhiêu % chứ không mấy khi nói đến GDP của quí này bao nhiêu nghìn tỷ. Ngay cả giới kinh tế (cả hàn lâm lẫn trên thị trường) cũng vậy, hỏi GDP của VN Q1 2015 là bao nhiêu ít người biết chính xác. Điều này có lý do của nó vì giá trị của GDP khi được thống kê bao gồm cả yếu tố lạm phát nên cơ quan thống kê phải bóc tách ảnh hưởng của lạm phát ra để có một con số phản ánh chính xác hơn sức khỏe của nền kinh tế thực. Thông thường giá trị của GDP sẽ được hiệu chỉnh theo mức giá của một năm gốc, hiện tại năm gốc mà TCTK sử dụng là 2010 (trước Q1 2013 năm gốc là 1994). Do đó con số giá trị GDP đã được hiệu chỉnh có ít ý nghĩa thực tế và khó hiểu với công chúng. Nói GDP Q1 của VN là 534.6 nghìn tỷ theo giá 2010 có thể sẽ gây hiểu nhầm vì thực ra tổng giá trị sản lượng quốc gia trong GDP Q1 ở thời điểm hiện tại là 808.9 nghìn tỷ. Bởi vậy thay vì nói về giá trị bao nhiêu nghìn tỷ, khái niệm tốc độ tăng GDP dễ hiểu và phổ biến hơn.
Tuy nhiên trong khi giá trị GDP (trong một chu kỳ thống kê nào đó, vd quí hay năm) là một con số duy nhất thì tốc độ tăng GDP phụ thuộc vào thời điểm so sánh (reference period). Con số phổ biến nhất là tốc độ tăng GDP hàng năm, nghĩa là lấy giá trị GDP của năm nay so với giá trị GDP của năm trước đó, cả hai con số này đều được hiệu chỉnh theo giá của năm gốc (vd năm 2010). Nhưng do GDP là một con số thống kê rất quan trọng nên hầu hết các nước đều thống kê và công bố GDP hàng quí. Tốc độ tăng trưởng (hay sụt giảm) GDP được công bố hàng quí thường là so sánh giá trị GDP của quí này với GDP của quí ngay trước đó. Con số tăng trưởng này gọi là quarter-on-quarter (qoq) và thường được qui đổi tương đương với tốc độ tăng trưởng theo năm bằng cách nhân với 4 (vì 1 năm có 4 quí). Ví dụ nếu GDP Q1 bằng 100 tỷ, Q2 bằng 101 tỷ thì annualized qoq growth rate (mà nhiều khi báo chí gọi tắt là qoq growth) bằng (101/100-1)*4=4% (thông lệ không sử dụng compound).
Vì số liệu quí hay bị tác động mùa vụ nên hầu hết thống kê GDP của các nước đều được hiệu chỉnh mùa vụ cho cả giá trị lẫn tốc độ tăng. Ví dụ khi báo chí đưa tin GDP Q4 2014 của Mỹ là 2.4% thì phải hiểu đó là tốc độ tăng của GDP trong Q4 so với GDP Q3 sau khi được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ và qui đổi thành tốc độ tăng trưởng năm. Giới tài chính có thể ghi chú bên cạnh con số này thêm ký hiệu "saar" (seasonally adjusted annualized rate) để tránh nhầm lẫn. Ở VN, như tôi đã nêu ra trong bài trước số liệu thống kê không/chưa được hiệu chỉnh yếu tố mùa vụ, bởi vậy giá trị lẫn tốc độ tăng trưởng qoq có biến động rất lớn. Ví dụ GDP Q1 2015 (theo giá hiện hành) là 808.9 nghìn tỷ VND giảm 36% so với GDP Q4 2015 là 1264.9 nghìn tỷ. Vì tốc độ giảm lớn như vậy nên không thể/không nên annualized (nhân với 4). Rõ ràng Tết ta vẫn có tác động rất lớn lên GDP Q1 2015.
Con số tăng trưởng thứ hai cho GDP theo quí có reference period là quí tương đương năm trước, vd so sánh Q1 2015 với Q1 2014. Giới tài chính sử dụng thuật ngữ year-on-year (hay year-over-year) để chỉ sự so sánh cùng kỳ này. Một điểm cần lưu ý là TCTK sử dụng một thông lệ hơi khác so với quốc tế khi công bố tốc độ tăng trưởng GDP cùng kỳ. Ở VN mỗi quí TCTK công bố giá trị GDP từ đầu năm cho đến cuối quí đó, nghĩa là GDP trong quí 1, trong 6 tháng đầu năm, trong 9 tháng đầu năm, và GDP cho toàn bộ 12 tháng. Thuật ngữ chuyên môn gọi là cumulative GDP, hiện tại ngoài VN tôi chỉ biết có TQ cũng sử dụng hình thức công bố này. Như vậy cứ mỗi cuối quí TCTK công bố tốc độ tăng trưởng GDP so với cùng kỳ năm trước phải hiểu là so với quí 1, với 6 tháng đầu năm, 9 tháng đầu năm, 12 tháng cả năm trước. Trong khi đó hầu hết các nước khi so sánh cùng kỳ sẽ là GDP Q1 năm nay so với Q1 năm trước, Q2 năm nay với Q2 năm trước...
Lợi ích của việc so sánh cùng kỳ này (dù theo cách quốc tế hay cumulative value như của VN và TQ) là loại trừ được yếu tố mùa vụ và không cần annualize (nhân với 4) vì tốc độ tăng cùng kỳ đó luôn giữa một khoảng 12 tháng. Điểm bất lợi của phương pháp này là nó không phản ánh kịp thời những biến động kinh tế mới nhất giữa 2 quí liền kề và con số này còn bị nhiễu bởi các quí nằm giữa 2 kỳ thống kê. Với báo chí và người dân điều này không quá quan trọng, nhưng với giới tài chính và policy makers (ở các nước) thì khó có thể chấp nhận nên tốc độ tăng trưởng cùng kỳ (yoy) thường chỉ có tính tham khảo cho xu hướng dài hạn chứ ít khi sử dụng cho các chính sách hay chiến lược đầu tư. Ở VN số liệu tăng trưởng qoq không được công bố ngoài lý do TCTK chưa có công cụ hiệu chỉnh mùa vụ phù hợp có thể còn vì ảnh hưởng của Tết ta vào GDP Q1 quá lớn nên sẽ rất bất lợi (về mặt tâm lý) khi công bố GDP Q1 giảm 36%.
Tóm lại cần lưu ý là dù cũng là tốc độ tăng trưởng GDP nhưng con số mà TCTK VN công bố hàng quí là yoy (cumulative) trong khi ở hầu hết các nước là qoq (saar).
Những vấn đề liên quan đến GDP Q1 2015
Như đã giải thích bên trên, con số 6.03% mà TCTK công bố là tăng trưởng GDP Q1 2015 so với cùng kỳ năm 2014, cả hai con số được tính theo giá năm gốc 2010 để loại bỏ yếu tố lạm phát. Một điều thú vị là nếu lấy giá trị GDP của hai quí 1 này, lần lượt là 503.7 nghìn tỷ (2014) và 534.8 nghìn tỷ (2015), để tính tốc độ tăng trưởng thì đúng ra phải là 6.13%. Sự "khiêm tốn" đáng ngạc nhiên này của TCTK có thể có hai lý do. Thứ nhất do cách tính GDP thay đổi nên con số GDP Q1 2014 đã được hiệu chỉnh tăng lên nhưng TCTK không công bố điều này. TCTK đã rập rình về khả năng thay đổi phương pháp tính GDP từ cuối năm ngoái sau khi cả thủ tướng lẫn chủ tịch QH than phiền về chất lượng thống kê. Tôi không biết có phải phương pháp tính đã thay đổi và GDP của các quí gần đây đã được tính lại hay không, rất mong TCTK công khai điều này.
Lý do thứ hai là việc chuyển năm gốc từ 1994 thành 2010 cũng có thể ảnh hưởng đến giá trị và tốc độ tăng GDP của các quí trước đó. TCTK chuyển năm gốc vào Q1 2013, nghĩa là về mặt lý thuyết tất cả các thống kê sau thời điểm này không bị ảnh hưởng bởi việc năm gốc thay đổi nữa. Tuy nhiên trên thực tế số liệu thống kê giai đoạn 2012-2014 đã được chỉnh sửa khá nhiều, có lẽ để đảm bảo tính nhất quán giữa hai chuỗi số liệu (trước và sau 2013) có năm gốc khác nhau. Cho đến thời điểm này TCTK chưa công bố chuỗi GDP theo năm gốc 2010 cho giai đoạn trước Q1 2013 nên tôi phải tự nối 2 chuỗi này với giả thiết tốc độ tăng không đổi khi đổi năm gốc. Điều này thực ra không chính xác nhưng không có lựa chọn nào khác nếu muốn nghiên cứu chuỗi (real) GDP dài. Các bạn làm việc liên quan đến GDP qúi của VN nên cẩn thận. Trong bài Tết vs GDP trước tôi sử dụng số liệu nominal GDP và dùng CPI hiệu chỉnh để tránh phải dùng real GDP.
Bỏ qua vấn đề con số tăng trưởng cùng kỳ của Q1 2015 là 6.03 hay 6.13%, vì đây là so với Q1 2014 nên ngay cả nếu nó thực sự tốt cũng không có nghĩa Tết ta năm 2015 không có tác động gì. Cả hai kỳ so sánh đều có Tết nên nếu tác động của Tết như nhau chúng đã được loại bỏ. So với quí ngay trước đó (Q4 2014), nominal GDP giảm 36% còn real GDP giảm gần 38%. Tất nhiên nói vậy không có nghĩa tôi phủ nhận con số 6.03 hay 6.13% là một tốc độ tăng rất tốt khi so sánh cùng kỳ. Có điều tôi không choáng/giật mình/bất ngờ như một vài thành viên chính phủ bởi vì tôi biết nền kinh tế đã qua đáy và đang trên đà phục hồi khoảng 1-2 năm lại đây. So sánh cùng kỳ (yoy) không tính cumulative thì Q4 2014 có tăng trưởng 6.78%, Q3 2014 là 6.36%, đều là tăng trưởng cao nhất trong 4 năm gần đây. Như vậy nếu có choáng/giật mình/bất ngờ thì đáng ra các bộ trưởng/thống đốc phải choáng/giật mình/bất ngờ từ tháng 9 hay cùng lắm là tháng 12 năm ngoái chứ không phải đợi đến bây giờ.
Sự chậm chễ đó sẽ không thành vấn đề nếu tăng trưởng trong những quí tới tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên đằng sau con số tăng trưởng 6.03% mà nhiều người bất ngờ có hai yếu tố làm tôi không lạc quan về những quí tới và cả năm 2015 như nhiều chuyên gia khác. Yếu tố thứ nhất là nếu nhìn vào tăng trưởng qoq được hiệu chỉnh mùa vụ theo phương pháp của Matthias Mohr mà tôi sử dụng trong bài trước, tăng trưởng GDP qoq của Q1 2015 thấp hơn Q1 2014. Như đã nói bên trên tăng trưởng qoq phản ánh tình trạng kinh tế kịp thời hơn con số yoy nên đây là dấu hiệu xấu. Xét về tổng thể tăng trưởng qoq của cả nominal lẫn real GDP có vẻ đã đạt đỉnh vào giữa năm 2014 và có dấu hiệu suy giảm trong 2 quí gần đây. Tất nhiên một vài quí chựng lại chưa thể kết luận nền kinh tế bắt đầu đi xuống, nhưng chí ít đây là dấu hiệu cảnh báo sự lạc quan về triển vọng kinh tế năm 2015 có thể có rủi ro.
Yếu tố thứ hai là một chỉ số lạm phát suy ra từ tốc độ tăng trưởng giữa nominal và real GDP (implicit price deflator - IPD) cho thấy lạm phát suy giảm rất nhanh từ giữa năm 2014. Lưu ý IDP khác với CPI vì rổ hàng hóa để tính tốc độ trượt giá khác nhau, tuy nhiên chúng cùng phản ánh tình trạng lạm phát trong một nền kinh tế. IPD cho Q1 2015 đã giảm xuống dưới 1%/năm, so với 5.8%/năm vào Q1 2014. Lạm phát giảm có thể do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể do tổng cầu yếu - là một điều không tốt cho nền kinh tế. Bên cạnh đó IPD (về cơ bản là chênh lệch giữa nominal và real growth) thấp phản ánh tình trạng real growth cao trong khi nominal growth thấp. Có thể thấy điều này khi so sánh yoy nominal growth: Q1 2015 là 6.92% so với Q1 2014 là 10.66%. Trên thực tế yoy nominal growth của Q1 2015 thấp nhất trong 10 năm qua, ngược hoàn toàn với yoy real growth.
Tóm lại có một vài dấu hỏi cho con số yoy của Q1 2015. Ngay cả nếu con số 6.03% chính xác vẫn có lý do để lo ngại triển vọng kinh tế trong thời gian tới. Ngoài ra con số này dù tốt hay không không liên quan gì đến ảnh hưởng của Tết vào GDP. Muốn đánh giá tác động của Tết phải phân tích tăng trưởng qoq chứ không phải yoy.
Thay cho lời kết...
Như vậy sự hoan hỷ của các quan chức chính phủ về con số tăng trưởng 6.03% của Q1 2015 rất có thể quá muộn. Có dấu hiệu cho thấy chính Q1 2015 là turning point, không phải đi lên mà là đi xuống. Ai làm dự báo cũng muốn mình đúng, nhưng quả thật tôi hi vọng nhận định của tôi trong bài này sai. Có thể GDP trong Q1 2015 chỉ bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ Tết quá dài vừa rồi, mọi thứ rồi sẽ ổn. Có thể góc nhìn này chỉ phân tích GDP tổng thể mà không đi sâu vào từng cấu thành của nó hay bổ sung các chỉ số khác như PMI, IP, export... là phiến diện. Thôi thì cứ hi vọng như vậy.
Subscribe to:
Posts (Atom)