Saturday, February 28, 2009
Politics VIII
Role of government II
2008 revisited
Khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới 2008
Trong gần một thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1999 kinh tế thế giới đã phát triển quá nóng, tạo ra bong bóng giá bất động sản và chứng khoán trên nhiều quốc gia. Đáng tiếc là hầu hết các ngân hàng trung ương đã không thắt chặt chính sách tiền tệ kịp thời và đủ mạnh đề giảm nhiệt tốc độ tăng trưởng và xì hơi các bong bóng giá này. Nghiêm trọng hơn, do đồng đô-la Mỹ được ngầm định là đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế, Mỹ đã trở thành nơi thu hút dòng vốn thặng dư mậu dịch của rất nhiều nước, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi như Trung quốc và các nước xuất khẩu dầu mỏ. Điều này không những gây ra sự mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân mậu dịch của Mỹ mà còn làm phình to thêm các bong bóng giá bất động sản và chứng khoán ở đây. Việc cắt giảm nhiều qui định quản lý hệ thống tài chính của Mỹ dưới thời Alan Greenspan và sự bùng phát các công cụ tài chính mới cũng một phần kích thích các bong bóng này.
Tháng 8/2007 bong bóng cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ bùng nổ. Chỉ trong hai tháng sau đó, bắt chấp nỗ lực của các ngân hàng trung ương Mỹ và châu Âu, cuộc khủng hoảng cho vay địa ốc dưới chuẩn đã làm suy sụp niềm tin của hệ thống tài chính ở các nước này dẫn đến một cuộc tháo chạy khỏi các khoản mục đầu tư bị cho là có rủi ro. Vì các tổ chức tài chính Mỹ và châu Âu đã có tỷ lệ leverage rất cao trong những năm trước đó, họ bắt đầu một cuộc deleveraging balance sheets của mình, bán tháo hoặc ngưng rollover các tài sản tài chính nhằm nâng tỷ lệ capital/asset ratio lên để chuẩn bị đối phó với cơn bão thua lỗ sẽ tràn đến trong năm 2008.
Một hậu quả ngoài dự tính của các nỗ lực deleveraging cuối năm 2007 và sự hoảng loạn sau khi bong bóng bùng nổ là thanh khoản trong hệ thống tài chính suy giảm nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường của hầu hết các công cụ tài chính. Điều này tiếp tục làm giảm giá các loại chứng khoán, nhất là những sản phẩm dẫn xuất liên quan đến địa ốc, tạo ra một vòng lặp (feedback loop) quay lại làm balance sheets của các tổ chức tài chính tiếp tục xấu đi. Hàng loạt ngân hàng nhanh chóng rơi từ tình trạng khó khăn thanh khoản sang nguy cơ phá sản vì vốn tự có không còn đủ để bù đắp các khoản lỗ phát sinh từ bất động sản và các loại tài sản khác.
Một hậu quả ngoài dự tính nữa là một phần lượng thanh khoản được nhiều nhà đầu tư rút ra khỏi thị trường địa ốc cuối năm 2007 và đầu năm 2008 đã chuyển sang đầu cơ các loại nguyên liệu thô và dầu mỏ với hi vọng các loại hàng hóa này sẽ lên giá. Những hoạt động đầu cơ này dựa vào tính toán Trung quốc và các nền kinh tế mới nổi sẽ không bị suy yếu vì cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và châu Âu (decoupling theory). Hơn nữa chính phủ Mỹ đã đưa ra một gói kích cầu trị giá 168 tỷ đô-la Mỹ vào đầu năm 2008, một cố gắng ngăn chặn không để khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến nền kinh tế thực. Chỉ trong vòng 12 tháng từ giữa năm 2007, giá dầu mỏ và nhiều loại kim loại đã tăng hơn gấp đôi. Một cuộc khủng hoảng giá lương thực nhỏ đã bùng phát khi một lượng lớn ngũ cốc bị các nhà sản xuất nguyên liệu thực vật đặt mua để đối phó với giá dầu tăng cao.
Cú sốc giá dầu và các loại nguyên liệu thô đã phá vỡ mọi hi vọng kinh tế thế giới sẽ vượt qua cơn khủng hoảng tài chính mà không rơi vào suy thoái. Từ cuối tháng 7/2008 cho đến khi Lehman Brothers phá sản vào trung tuần tháng 9/2008, hoạt động deleveraging tăng lên đỉnh điểm kéo theo sự sụp đổ của hầu hết các đồng tiền mạnh trên thế giới, đặc biệt là các đồng tiền hàng hóa (commodity currencies). Đồng đô-la Mỹ lên giá đã nhanh chóng triệt tiêu những cải thiện về cán cân thương mại của Mỹ trước đó, đồng thời kéo theo cả đồng Yen Nhật và Reminbi Trung quốc tăng giá làm xuất khẩu của hai nước này bắt đầu sụt giảm.
Sự kiện Lehman Brothers phá sản và các hệ lụy của nó đã chính thức đẩy nền kinh tế Mỹ và toàn thế giới rơi vào suy thoái. Không chỉ các nước phát triển mà nhiều nền kinh tế mới nổi cũng rơi vào khủng hoảng. Toàn bộ hệ thống ngân hàng của Iceland phá sản, Ireland, Hungary, Ukraine, Korea, Singapore và nhiều nước khác đã phải đưa ra nhiều biện pháp khẩn cấp để cứu nguy nền kinh tế của mình. Các nước trong khối BRIC, mà điển hình là Trung quốc, thành trì cuối cùng của kinh tế thế giới, đã chứng kiến sự sụt giảm sản lượng công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu trong những tháng cuối năm 2008 và buộc phải tuyên bố một gói kích cầu rất tham vọng.
Saturday, February 21, 2009
Swiss banks
Banks vs Bank Holdings
Friday, February 20, 2009
Thursday, February 19, 2009
AAA
Đây là credit rating hiện tại của UK. Nhưng có thể không lâu nữa UK sẽ bị S&P downgrade và như vậy sẽ tạo thêm gánh nặng cho các khoản vay của chính phủ để tài trợ cho stimulus package và bank bailout. Ironically, UK bị đe dọa mất AAA chính vì bank bailout. Office for National Statistics của Anh vừa chính thức công nhận RBS và Lloyds Banking Group là "doanh nghiệp quốc doanh" sau khi chính phủ inject capital vào 2 ngân hàng này. Do vậy giờ đây toàn bộ liabilities của RBS và Lloyds đã trở thành "public debts" và làm tổng public debts của Anh tăng vọt lên thêm ₤1 trillion. Đấy là lý do S&P dọa sẽ downgrade credit rating của UK.
Walmart effect
Preprivatization
Wednesday, February 18, 2009
Negative seigniorage
Thông thường khi inflation dương, các ngân hàng trung ương có một khoản thu từ số tiền mặt phát hành hàng năm để bù cho sự mất mát sức mua của đồng tiền hiện hành. Khoản thu này được gọi là seigniorage hay là inflation tax. Một số nước như Zimbabwe hiện tại hay VN thời 80 thậm chí lấy seigniorage làm một nguồn thu quan trọng cho chính phủ.
Vậy nếu inflation âm, nghĩa là nền kinh tế rơi vào deflation, thì seigniorage có bị âm theo không? Hiển nhiên là không vì dù có bị deflation ngân hàng trung ương cũng không mất đồng nào mà thậm chí vẫn có thể có seigniorage nếu họ vẫn duy trì tốc độ tăng monetary base trong khi money multiplier giảm xuống thấp. Ngay cả trong trường hợp ngân hàng trung ương ngừng phát hành tiền mới thì seigniorage cũng chỉ bằng không mà thôi. Như vậy trường hợp nào seigniorage bị âm?
Theo bài báo này của WSJ thì negative seigniorage đã và đang xảy ra ở Mỹ, nhưng hoàn toàn không liên quan gì đến deflation. Đó là vì hàng năm chính phủ Mỹ phải phát hành 7 tỷ đồng 1 cent cho nhu cầu thanh toán, trong khi chi phí sản xuất mỗi đồng là 1.7 cent, nên hàng năm seigniorage của số tiền 1 cent này là -$50m. Tất nhiên đối với những nhà kinh tế như Greg Mankiw thì điều này không thể chấp nhận được và họ đã kêu gọi không phát hành đồng xu này nữa. Rõ ràng với trào lưu thanh toán bằng thẻ và các phương tiện điện tử khác ngày càng thông dụng, vai trò của tiền giấy và nhất là tiền xu sẽ ngày càng thu hẹp. Tuy nhiên một lý do quan trọng để người Mỹ chấp nhận mất $50m hàng năm vì đồng 1 cent có hình của vị tổng thống vĩ đại nhất nước Mỹ: Abraham Lincoln.
Không biết NHNN VN hàng năm phải mất bao nhiêu tiền cho negative seigniorage khi phát hành các đồng tiền xu có mệnh giá nhỏ như 200/500 VNĐ?
Too big II
Mấy hôm nay giới econblog đang lo ngại về tình hinh hệ thống ngân hàng ở các nước Đông Âu. Nhưng đằng sau mối lo ngại này là sự sợ hãi một cuộc khủng hoảng dây chuyền sẽ nổ ra khi các ngân hàng Tây Âu cho các ngân hàng Đông Âu vay rất nhiều, có tin đồn là số vay đó lên đến 60-70% total assets. Mà nếu các ngân hàng Tây Âu gặp khó khăn, chính phủ các nước này sẽ không phải chỉ đối mặt với vấn đề too-big-to-fail mà còn là too-big-to rescue. Ed Harrison (Credit Writedowns) đưa ra những số liệu sau:
- Denmark - GDP: $312 billion; Danske Bank - Assets: $615 billion (197% of GDP)
- United Kingdom - GDP: $2.8 trillion; RBS - Assets: $3.8 trillion or 136% of GDP (with HSBC and Barclays this rises to $8.6 trillion or 226% of GDP)
- Switzerland - GDP: $492 billion; UBS and Credit Suisse - Assets: $3 trillion (658% of GDP)
- France - GDP: $2.6 trillion; BNP Paribas, Agricole, SocGen, and Dexia - Assets ($6.7 trillion or 259% of GDP)
- Netherlands - GDP: $777 billion; ING - Assets: $1.8 trillion or 231% of GDP (with Fortis this rises to $2.9 trillion or 385% of GDP)
- Germany - GDP: $3.3 trillion; Deutsche Bank - Assets: $2.7 trillion (83% of GDP)
Xem ra VN vẫn còn khá hơn vì tổng tài sản của ngân hàng thương mại lớn nhất VN, Agribank, cũng chỉ vào khoảng $15.7b, chưa đến 20% GDP.
Vegetable elasticity
Bài này của Vietnamnet cho biết hoàn cảnh khó khăn của những người nông dân trồng rau ở ngoại thành Hà nội. Lý do vì năm nay rau được mùa nên giá giảm nhưng sức mua không tăng, hậu quả là rau ế và người trồng rau thua lỗ.
Bài này của Matt Yglesias trích dẫn một nghiên cứu của Diansheng Dong and Biing Hwan-Lin cho biết price elasticity của vegetable consumption ở Mỹ rất thấp, chỉ vào khoảng 0.21 đến 0.49. Do đó dù giá rau quả có giảm nhiều cũng không làm consumption tăng. Còn nếu supply tăng, dù chỉ tăng nhẹ, cũng có thể làm giá giảm mạnh. Ngược lại, khi supply giảm (như sau đợt lụt tại HN năm ngoái) giá sẽ tăng rất mạnh.
Do vậy, cả người nông dân trồng rau lẫn người tiêu dùng sẽ vẫn phải chịu cảnh giá rau giao động rất mạnh tùy thuộc vào thời tiết. Chỉ đến khi nào giữa người nông dân và người tiêu dùng có một hệ thống phân phối đủ mạnh để làm buffer cho những lúc giá thay đổi như hiện tại (ví dụ như những chuỗi siêu thị bán thực phẩm lớn ở các nước phát triển). Những nhà phân phối này sẽ làm thêm chức năng price insurer hay price stabilization fund cho người nông dân.
17-2
Ngày này 30 năm trước:
"Về quân sự, tác giả Edward C. O'Dowd đánh giá rằng quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Cần biết rằng để đối phó với quân chủ lực chính quy Trung Quốc, Việt Nam chỉ dùng duy nhất một quân đoàn chủ lực chính quy, còn lại là khoảng 100.000 dân quân tự vệ. Tại Lạng Sơn, 2 quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một quân đoàn khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 trong quân số 2800 của trung đoàn này." (Nguồn: Wikipedia tiếng Việt).
Tôi luôn khâm phục và biết ơn những người đã đổ xương máu cho Tổ quốc. Chúng ta có thể tha thứ cho tội ác, xóa bỏ hận thù để tiến lên phía trước. Nhưng không ai sẽ bị lãng quên, không điều gì có thể bị lãng quên.
Tuesday, February 17, 2009
Petrol price
Hai tuần vừa rồi, cứ mỗi lần đi đổ xăng tôi lại thắc mắc tại sao giá xăng cứ tăng liên tục trong khi giá dầu thô giảm liên tục. Hôm nay đọc bài báo này thấy tình hình ở VN cũng hệt như vậy. Sau một hồi tìm hiểu, tôi phát hiện ra nguyên nhân của sự disconnection này là do giá dầu thô mà giới truyền thông cũng như nhiều người trong giới kinh tế tài chính đề cập đến là giá dầu WTI (West Texas Intermediate) được trade trên NYMEX.
Điều đáng nói là các contract trade WTI trên NYMEX qui định sản phẩm này sẽ được giao tại Cushing, Oklahoma, một thị trấn nằm ở miền trung nước Mỹ. Theo Eugen Weinberg (Commerzbank), tổng số lượng bể chứa ở Cushing chỉ là 20.5 triệu thùng (một tác giả khác cho rằng con số này khoảng 34 triệu thùng), trong khi hàng ngày khối lượng giao dịch vào khoảng 500-600 triệu thùng. Do vậy một khi cung nhiều hơn cầu như thời điểm hiện tại, khả năng lưu kho dầu thô tại Cushing rất kém dẫn đến tình trạng giá dầu ở đây bị sụt giảm nghiêm trọng.
Ngoài WTI, trên thế giới còn phổ biến một giá dầu tham chiếu khác là Brent Crude oil, trước đây được trade trên International Petroleum Exchange ở London, sau năm 2005 đã được trade trên IntercontinentalExchange (ICE). Thông thường WTI có giá cao hơn Brent, một phần vì chất lượng WTI tốt hơn, một phần vì Brent phải bị discount chi phí vận chuyển từ châu Âu sang Mỹ, thị trường tiêu thụ dầu thô lớn nhất thế giới. Tuy nhiên từ tháng 12/2008 giá Brent đã vượt lên giá WTI, có lúc cao hơn $10/thùng, nguyên nhân hoàn toàn vì các bể chứa ở Cushing đã đầy (theo Govanni Serio của GS).
Trong khi đó, vì lý do Brent thông thường rẻ hơn WTI nên nhiều nhà máy lọc dầu ở Mỹ đã được thiết kế chỉ để xử lý dầu Brent. Hơn nữa vì Cushing không phải là cảng biển nên để vận chuyển dầu thô từ đó đến các nhà máy lọc dầu buộc phải xây dựng đường ống. Điều này ngăn cản rất nhiều nhà máy lọc dầu ở Mỹ chuyển sang dùng WTI đang rẻ hơn thay vì dùng Brent.
Không chỉ ở Mỹ, hầu hết các nhà máy lọc dầu trên thế giới cũng đang sử dụng dầu thô với giá được link với giá Brent chứ không phải WTI, có lẽ một phần vì báo cáo này của Lehman Brothers vào năm 2007. Bởi vậy, giá xăng cả ở Mỹ và các nơi khác trên thế giới bị disconnected khỏi giá dầu thô WTI, nghĩa là trong khi báo đài vẫn thông tin giá WTI giảm, giá xăng vẫn tiếp tục tăng. Chắc phải một thời gian nữa người ta mới quen với việc report giá Brent thay vì giá WTI.
Unfair competition
Population aging
Sunday, February 15, 2009
Friday, February 13, 2009
Alternatives
Update (22/02): Willem Buiter cũng đề nghị mở ngân hàng mới chứ không nên tiếp tục cứu các ngân hàng đang khó khăn.
4 D
01. Introduction - 05 min 47 sec
02. Slowed Economic Growth in 2009 - 04 min 01 sec
03. Risk of Social Unrest and Protectionism - 04 min 36 sec
04. Optimism about 2010 - 03 min 56 sec
05. Why India May Not Suffer As Much - 08 min 35 sec
06. Bank Situation Better than the Autumn - 04 min 07 sec
07. Liquidity Provision, Clear Balance Sheets, Recapitalization - 05 min 04 sec
08. Bank Capital Regulation - 03 min 59 sec
09. Criteria to Make Action Feasible - 05 min 09 sec
10. Likely Success of G20 Agreement - 05 min 55 sec
11. Questions from the Floor - 02 min17 sec
12. Reducing Dependence on Hegemonic Powers - 02 min 25 sec
13. Compensating for Decreased Personal Spending - 01 min 12 sec
14. Good Banks and Bad Banks - 01 min 34 sec
15. Avoid Protectionism - -58 min-38 sec