Wednesday, May 27, 2009

Printing press


Còn nhớ hồi những năm 80, mỗi khi nhìn thấy nhiều tờ tiền mới các bà nội trợ thường ngao ngán than thở: "Ông Nhà nước lại in thêm tiền để tiêu rồi, chẳng mấy chốc giá cả ngoài chợ sẽ tăng gấp đôi". Sau này, một nhà kinh tế người Nhật khi nghiên cứu về hệ thống tài chính VN cũng đã sử dụng một phương pháp tương tự để ước đoán lượng cung tiền của NHNN trong thời bao cấp. Vì không có số liệu chính thức, ông dùng tốc độ tăng trên số series của đồng tiền phát hành làm chỉ số cho tốc độ tăng cung tiền trong thời gian đó. Quan sát của các bà nội trợ và phương pháp tính của nhà kinh tế người Nhật dù khá thô sơ và không thật chính xác, có thể nói đã phản ánh rất trung thực bản chất hệ thống tiền tệ đơn giản của VN trong thời bao cấp.


Trong lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại, đẳng thức PY=MV được xem như một quan hệ kinh tế căn bản trong một nền kinh tế. Nhiều người nhầm tưởng nó chỉ đúng với một nền kinh tế thị trường, nhưng thực ra trong hệ thống tài chính một ngân hàng (monobank system) như của VN trong thời bao cấp, quan hệ kinh tế này thậm chí còn chính xác hơn vì M chính là lượng tiền mặt được lưu hành. Thời đó dòng vốn lưu chuyển trong nền kinh tế hoàn toàn theo kế hoạch định trước và không có khái niệm tín dụng, nghĩa là đi vay và cho vay. Tiền mặt được lưu hành chỉ với một mục đích trả lương cho người lao động và tổng số tiền mặt này sẽ quyết định mức giá chợ đen cho các mặt hàng giao dịch bên ngoài hệ thống phân phối tem phiếu của nhà nước, đúng theo qui luật của đẳng thức PY=MV.

Mỗi khi chính phủ bị thâm hụt ngân sách, sau khi cân đối tất cả các khoản viện trợ và vay nước ngoài, cách duy nhất để có tiền chi tiêu là in thêm tiền. Nên nhớ chính phủ lúc đó không thể phát hành trái phiếu hay tăng thuế, càng không có các nguồn thu từ cổ phần hóa, bán (quyền sử dụng) đất, hay bán dầu thô (bauxite) như ngày nay. Bởi vậy, với những ai đã trưởng thành qua thời bao cấp, thâm hụt ngân sách đồng nghĩa với in tiền và đồng nghĩa với (siêu) lạm phát. Tất nhiên "in tiền" được hiểu với đúng nghĩa đen của nó: một lượng tiền giấy mới với số series mới được đưa ra lưu thông.

Đi đôi với công cuộc đổi mới kinh tế, hệ thống tài chính VN đã chuyển mình từ một Ngân hàng Nhà nước duy nhất thành một hệ thống các ngân hàng thương mại, quốc doanh và tư nhân, xoay quanh một ngân hàng trung ương đúng như cấu trúc của một hệ thống ngân hàng trong một nền kinh tế thị trường. Nguyên tắc hoạt động của các ngân hàng thương mại ở VN hiện tại đã không khác gì các ngân hàng thương mại khắp nơi trên thế giới. Đó là nguyên tắc ngân hàng dự trữ bán phần (fractional reserve banking): nhận tiền gửi từ công chúng và cho vay một phần số tiền đó cho những đối tượng cần tín dụng. Một đặc điểm quan trọng trong hệ thống này là M trong đẳng thức PY=MV không chỉ là tiền mặt nữa mà là một bội số của nó. Nghĩa là tổng phương tiện thanh toán M trong nền kinh tế cao hơn nhiều lần số tiền mặt mà ngân hàng trung ương đã phát hành.

Các ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc này luôn phải đối mặt với rủi ro không đủ tiền mặt để đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng. Do vậy họ luôn phải có một khoản dự trữ (bắt buộc và/hoặc tự nguyện) chứ không thể đem hết tiền gửi đi cho vay. Khoản dự trữ này có thể là tiền giấy cất trong két sắt của ngân hàng, nhưng đa phần là một tài khoản tại ngân hàng trung ương được gọi là dự trữ ngân hàng (bank reserves). Ngoài mục đích dự trữ cho nhu cầu rút tiền của khách hàng, tài khoản dự trữ này còn được dùng cho hoạt động thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng với nhau vào cuối mỗi ngày giao dịch. Bởi vậy, ngay cả trong trường hợp lượng tiền giấy lưu hành trong nền kinh tế không đổi, nếu độ lớn của các tài khoản dự trữ này tăng lên, tổng phương tiện thanh toán (M) cũng tăng theo với một bội số rất lớn.

Đặc điểm này đã làm khái niệm "in tiền" không đơn thuần là phát hành tiền giấy như trước đây mà còn bao gồm cả khi số dư trên các tài khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại tăng. Nên nhớ là ngân hàng trung ương cũng là một tổ chức tài chính nên cũng phải tuân theo các nguyên tắc kế toán căn bản. Khi các ngân hàng thương mại mở tài khoản dự trữ, hai cột có và nợ trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương phải tăng đúng bằng giá trị của tài khoản mới được mở. Mỗi khi ngân hàng nhà nước "in tiền" bằng cách làm tăng thêm sô dư trên tài khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại, bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương cũng phình to tương ứng. Đây là cách phổ biến mà các ngân hàng trung ương hiện đại "in tiền", nên nếu chỉ quan sát lượng tiền giấy mới phát hành hay theo dõi tốc độ tăng của số series tiền giấy sẽ không còn phản ánh được tốc độ "in tiền" của ngân hàng trung ương nữa. Cách chính xác nhất là theo dõi độ lớn của bản cân đối tài sản của ngân hàng trung ương.

Ngoài ra mối liên hệ giữa thâm hụt ngân sách và in tiền cũng không đơn giản như trước kia. Ngân hàng nhà nước hiện tại không thể đơn thuần in ra một lượng tiền giấy mới và chuyển cho chính phủ chi tiêu (tăng cột nợ) mà cần phải có một đối trọng bên cột có của bảng cân đối tài sản. Thông thường chính phủ sẽ phát hành trái phiếu mới, nhưng không phải ra công chúng mà bán trực tiếp cho ngân hàng trung ương. Như vậy bảng cân đối tài sản của ngân hàng trung ương sẽ cân bằng và tất nhiên sẽ phình to ra đúng bằng số tiền mới "in thêm". Do đó để biết chính phủ có tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách in tiền hay không, cần theo dõi số lượng trái phiếu mà ngân hàng trung ương mua trực tiếp từ chính phủ.

Cuối cùng, khác với trước đây in tiền luôn đồng nghĩa với lạm phát, hình thức "in tiền" hiện đại trong đa số trường hợp sẽ ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh toán nhưng không nhất thiết với một tỷ lệ cố định. Tỷ lệ này phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế, nghĩa là hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, nên không nhất thiết cứ "in tiền" là có lạm phát. Một ví dụ cụ thể là bảng cân đối tài sản của Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) đã tăng hơn gấp đôi trong vòng một năm vừa rồi nhưng kinh tế Mỹ vẫn còn nguy cơ thiểu phát. Đây là hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế làm các ngân hàng thương mại Mỹ ngần ngại cho vay dù số dư trên các tài khoản dự trữ của họ đã tăng lên nhiều lần. Tuy nhiên đây là một quả bom nổ chậm vì một khi kinh tế bắt đầu phục hồi và hệ thống ngân hàng cho vay trở lại thì nguy cơ lạm phát sẽ rất cao nếu Fed không rút về kịp thời số thanh khoản đang nằm án binh bất động trong các tài khoản dự trữ đó.

(Note: Một version của entry này đã được đăng trên TBKTSG.)


1 comment:

  1. Câu hỏi: Vì sao chính phủ có thể in thêm tiền? Số tiền đó sẽ được chính phủ sử dụng như thế nào?

    Theo nguyên tắc thì chỉ có hệ thống ngân hàng mới có thể tạo ra tiền nhưng ở VN thì chính phủ chỉ đạo việc in thêm tiền do tính độc lập tương đối của ngân hàng nhà nước với chính phủ.

    Quyền được in thêm tiền được xem là một phát minh do Newton nghĩ ra để chính phủ Anh tài trợ cho thâm hụt ngân sách thường trở nên trầm trọng một các cuộc chiến tranh tốn kém.

    Việc "phát minh" này khiến nhà nước trở nên có quyền lực to lớn hơn khi nắm hầu bao của người dân. Chính phủ có thể chi tiêu tùy thích và sau đó in thêm tiền để trang trải cho chi tiêu đó.

    Sau khi chính phủ in thêm tiền thì hiện tượng lạm phát bắt đầu bùng nổ bởi vì theo nguyên tắc thì tiền không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ chuyển từ túi người này sang túi người khác.

    Lạm phát chính là cách chính phủ đánh thuế người dân một cách êm ái nhất.

    Ngạn ngữ Anh có câu: Lạm phát là cách ông ngỗng vặt lông ngỗng mà con ngỗng ít kêu nhất.

    Chính phủ đang thu thuế người dân bằng việc in thêm tiền nhưng người dân (một số bộ phận nhà đầu tư và các kinh tế gia xa-lông) lại rất vô tư, hồ hởi, phấn khởi với việc chứng khoán tăng vùn vụt.

    Hậu quả cuối cùng của lạm phát chắc chắn là những người dân nghèo (những người ít có cơ hội tiếp cận với tín dụng nhất) lãnh đủ.

    Hậu quả nhãn tiền của lạm phát năm 2008 còn trước mắt nhưng đã có rất nhiều người (kể cả các kinh tế gia) quên mất bài học đó.

    ReplyDelete

Note: Only a member of this blog may post a comment.