Chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước của VN nằm trong tổng thể cải tổ nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Đây là một quyết định đúng đắn xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của nhiều nước và của bản thân VN, đồng thời cũng là khuyến cáo của những nghiên cứu kinh điển về chuyển đổi kinh tế của Janos Kornai hay Joseph Stiglitz. Tuy nhiên VN cũng như TQ đã quyết định giữ lại sở hữu nhà nước trong một số ngành/doanh nghiệp quan trọng của nền kinh tế, những "commanding heights" như Lenin đã gọi.
Sau một thời gian loay hoay tìm cách quản lý những doanh nghiệp nhà nước (SOE) còn lại này, SCIC đã ra đời như một sự kết hợp giữa quản lý nhà nước với kinh tế thị trường. SCIC ra đời là hậu quả tất yếu vì hình thức "bộ chủ quản" trước đây ngày càng không phù hợp với sự phát triển của các SOE. Các tổng công ty, nay sắp được gọi là tập đoàn, càng ngày càng bành trướng sang các lĩnh vực kinh doanh không thuộc thẩm quyền của bộ chủ quản nữa, ví dụ Tổng Công ty Hàng hải tham gia lĩnh vực ngân hàng hay Tổng công ty Điện lực nhảy vào lĩnh vực bất động sản. Bản thân các hoạt động kinh doanh "core" của các SOE cũng phức tạp lên rất nhiều, đòi hỏi phải có đội ngũ quản lý chuyên sâu chứ không phải các quan chức hành chính như trước nữa.
Xét trong bối cảnh đó, SCIC ra đời là một điều đáng hoan nghênh và là một bước tiến trong corporate governance cho các SOE. Vì chính phủ vẫn muốn kiểm soát và ảnh hưởng vào chiến lược kinh doanh và phát triển của các doanh nghiệp trong portfolio của SCIC, cơ quan này buộc phải có đại diện trong các hội đồng quản trị của các công ty đó. Website của SCIC có công bố một bản qui định khá chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người đại diện SCIC tại các doanh nghiệp, nhưng tiếc là không công bố danh sách cụ thể các đại diện đó.
Vì VN chưa có đội ngũ những người làm board member chuyên nghiệp nên có thể suy đoán rằng đa số những người đại diện của SCIC đều là giám đốc/phó giám đốc tại các doanh nghiệp mà họ đại diện. Nếu những người đại diện này cũng có cổ phần trong công ty mà mình đại diện thì họ có thể lợi dụng phần cổ phần của SCIC để leverage quyền quyết định của mình trong HĐQT. Ngoài ra những người này về nguyên tắc đều biết trước những thông tin liên quan đến quyết định của SCIC trước các thành viên HĐQT khác nên dễ có khả năng họ lợi dụng thông tin insider này cho mình. Dẫu sao những khó khăn này là không tránh khỏi trong giai đoạn đầu, chỉ hi vọng SCIC có chính sách dần thay thế những internal board members này bằng các chuyên gia bên ngoài khi điều kiện có thể.
Nếu SCIC chỉ dừng lại ở vai trò quản lý vốn của nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì sẽ ít người nhớ đến nó như trong giai đoạn 2006-2007, dù SCIC vẫn luôn là một "siêu" tổng công ty và là "bánh lái" chính của nền kinh tế. Thế nhưng những tháng đầu năm 2008 dư luận và báo giới lại sôi sục bàn tán về SCIC khi có tin tổng công ty này sẽ can thiệp vào thị trường chứng khoán để "cứu" chỉ số VN-Index đang rơi không phanh lúc đó. Mặc dù chi tiết SCIC sẽ can thiệp vào thị trường chứng khoán như thế nào không được công bố, chỉ riêng việc Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, đồng thời là chủ tịch HĐQT của SCIC, tuyên bố sẽ không "hi sinh thị trường chứng khoán" và "nếu có tiền tôi sẽ mua cổ phiếu" cho thấy quyết tâm của SCIC.
Việc SCIC can thiệp vào thị trường chứng khoán là dấu hiệu chuyển hướng đầu tiên của tổ chức này khỏi vai trò quản lý vốn nhà nước một cách thụ động. Với số "lãi lớn" từ việc thoái vốn khỏi những công ty không còn được coi là commanding heights nữa giúp cho SCIC có năng lực tài chính vào hàng "đại gia" trong số các quĩ đầu tư hiện hữu ở VN. Không lâu sau đó SCIC tuyên bố sẽ cùng một số tổng công ty nhà nước (điện lực, dầu khí) đầu tư vào các dự án chiến lược để đảm bảo nhà nước có sở hữu đa số trong các ngành công nghiệp đó. Sang năm 2009, SCIC đánh tiếng với TPHCM xin đầu tư vào khu trung tâm tài chính Thủ thiêm và khu đô thị cảng Hiệp phước. Đến lúc này có thể thấy một hình ảnh Temasek của VN đang dần dần xuất hiện, chỉ chưa biết đến khi nào SCIC sẽ đầu tư ra nước ngoài để thế giới biết đến một sovereign wealth fund (SWF) mới từ VN.
Có thể nói Temasek đã thành công trong việc xây dựng một Singapore Inc., tiếng lóng của giới kinh tế về một nước Singapore như là một doanh nghiệp chứ không phải một quốc gia. Tuy nhiên SCIC sẽ có nhiều khó khăn khi muốn copy lại mô hình hoạt động của Temasek. Xét trên khía cạnh khách quan, SCIC phải quản lý một loạt các doanh nghiệp nhà nước đã được hình thành hàng chục năm nay với cơ cấu và nhân sự cũ kỹ và productivity kém cỏi. Trong khi Temasek chỉ phải lo phát triển kinh tế, SCIC sẽ phải đảm bảo cả 'định hướng xã hội chủ nghĩa" trong các dự án đầu tư của mình. Điều này vừa làm giảm lợi nhuận của SCIC vừa không khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư. Hoàn cảnh quốc tế của SCIC hiện tại cũng khó khăn hơn Temasek cách đây hơn 30 năm rất nhiều. Các qui định của WTO hiện rất chặt chẽ, các vụ kiện phá giá sẽ làm các doanh nghiệp lo ngại khi mang danh có cổ phần của SCIC.
Xét về góc độ chủ quan, ngay từ khi thành lập SCIC đã gần như bê nguyên một bộ phận của Bộ Tài chính về thành lập bộ máy của mình. Cho đến thời điểm này, Tổng Giám đốc của SCIC đều là cựu Thứ trưởng Bộ Tài chính, còn Chủ tịch HĐQT là đương kim Bộ trưởng Bộ này. Khác với Temasek chỉ có hai quan chức chính phủ trong HĐQT chín người, toàn bộ HĐQT của SCIC đều đã hoặc đang là quan chức nhà nước lâu năm. Trong khi xóa bỏ hình thức bộ chủ quản là một bước tiến trong quản trị doanh nghiệp thì việc thiếu vắng các nhà quản trị kinh nghiệm và chuyên nghiệp trong nội bộ SCIC là một bước lùi rất lớn. Nếu chính phủ muốn giữ quyền kiểm soát SCIC và rộng hơn nữa là các doanh nghiệp do SCIC quản lý thì nên học theo cơ chế của chính Temasek. Đó là chính phủ chỉ có một đại diện nhưng giữ quyền veto tất cả các quyết định của HĐQT nếu cần. Song song với cơ chế này cần phải xây dựng một HĐQT chuyên nghiệp và phi hành chính.
Vấn đề chuyên nghiệp hóa các vị trí chủ chốt của SCIC là điều cần thiết, tuy nhiên kinh nghiệm của các SWF lớn trên thế giới cho thấy quá trình đầu tư hiệu quả luôn đòi hỏi phải có tư vấn đầu tư chuyên nghiệp và độc lập. SCIC dù có đội ngũ chuyên gia nội bộ lớn và chuyên nghiệp đến đâu cũng không thể cover được hết các lĩnh vực của nền kinh tế, chưa kể tương lai SCIC có thể sẽ đầu tư ra ngoài VN. Outsource quá trình đầu tư sẽ tạo điều kiện cho SCIC tập trung vào việc hoạch định chiến lươc đầu tư phục vụ cho các mục đích non-economic. Thay vì phải lo qui hoạch thiết kế hay giải tỏa mặt bằng cho khu tài chính Thủ thiêm, lãnh đạo SCIC sẽ có thời gian tính toán chiến lược xem liệu đầu tư vào Thủ thiêm có phục vụ cho mục tiêu lâu dài của chính phủ và đất nước hay không. Hoặc đơn giản hơn là liệu một tổ chức tư nhân có làm được điều này không để SCIC dùng vốn cho những dự án khác quan trọng hơn về mặt chiến lược. Mặt khác, việc SCIC oursource các dự án đầu tư sẽ là hình thức tự kỷ luật mình giúp cho chính phủ yên tâm về tính khách quan và tầm nhìn của các quyết định đầu tư của SCIC. Đấy cũng là cách để chính phủ có option trong tương lai thiết lập thêm một vài SWF khác vừa cạnh tranh vừa bổ trợ cho SCIC, tất nhiên hi vọng là trong tương lai chính phủ sẽ có budget surplus lớn giống như Singapore hay Úc.
Trước mắt, trong hoàn cảnh chính phủ vẫn tiếp tục bị thâm hụt ngân sách và phải huy động vốn cả trong và ngoài nước với lãi suất khá cao, có lẽ nguồn vốn của SCIC thu được từ việc thoái vốn các doanh nghiệp do mình quản lý nên được chuyển về cho ngân sách để tránh gánh nặng nợ nần cho quốc gia và cho các thế hệ mai sau. SCIC nên tập trung củng cố và chuyên nghiệp hóa đội ngũ những người đại diện cho mình ở các HĐQT của các công ty. Việc này vừa có lợi cho SCIC vừa có lợi cho giới corporate của VN về lâu dài. Trong khi bản thân SCIC chưa chuyên nghiệp hóa, khả năng lặp lại thành công của Singapore trong những năm 60-70 là vô cùng khó và đầy rủi ro.
(Note: Một version của bài viết này đã được đăng trên SGTT)
Update (05/10): SCIC công bố lãi trước thuế 1415 tỷ VNĐ trong 9 tháng đầu năm 2009.